Xu hướng sản xuất xanh của các doanh nghiệp Việt

“Sản xuất xanh” là quy trình sản xuất mà từ nguyên liệu đầu vào đến sản phẩm đầu ra đều thân thiện với môi trường và không gây nguy hại cho sức khỏe con người. Sản xuất xanh đang là một mắt xích quan trọng giúp Việt Nam hướng tới một nền kinh tế xanh và bền vững. Xanh hóa sản xuất còn đặt ra cho các doanh nghiệp những đòi hỏi, yêu cầu mới phù hợp với xu thế phát triển chung, đồng thời nâng cao vị thế, tăng sức cạnh tranh ở cả thị trường trong và ngoài nước.

Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã và đang chú trọng hơn sử dụng nguồn nguyên vật liệu tự nhiên, nhiên liệu, hóa chất không gây độc hại; đầu tư dây chuyền máy móc, công nghệ, trang thiết bị dây chuyền sản xuất hiện đại theo các tiêu chuẩn quốc tế để cải tiến quy trình, hướng tới sản xuất xanh.

Ví dụ kinh nghiệm được chia sẻ tại Công ty TNHH Long An với cách sản xuất sạch liên hoàn, khép kín theo tiêu chuẩn thấp nhất là VietGAP, từ cây ăn trái như chuối, bưởi, sầu riêng đến chăn nuôi bò Australia, bò Nhật, con tôm…, công ty, đã phát triển trang trại ngày càng chất lượng, lớn mạnh, trở thành đối tác quan trọng của thị trường Nhật Bản trong nhập khẩu chuối Fohla. Để trái chuối đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, Công ty phải tuân thủ quy tắc sản xuất theo hơn 140 tiêu chí an toàn thực phẩm do thị trường Nhật Bản đề ra. Trong số đó, bao gồm các hoạt động ghi chép nhật ký sản xuất hàng ngày, vật tư sản xuất chỉ có những hoạt chất được Nhật Bản cho phép sử dụng.

Với mỗi lô hàng được chuyển sang thị trường Nhật Bản, đều được đội ngũ nhân viên kiểm tra, sàng lọc các tạp chất, độ đồng đều, cũng như chất lượng theo yêu cầu của nhà nhập khẩu. Không dừng lại ở đó, họ còn kết hợp sản xuất chăn nuôi bò thịt giống Úc tại các trang trại, với đệm lót sinh học từ mụn dừa và chế phẩm vi sinh xử lý phân bò trực tiếp tại chuồng, tạo không gian xanh sạch cho môi trường sống của bò thịt. Cũng từ cách làm này, nguồn chất thải từ con bò thịt trở thành nguồn phân vi sinh với khối lượng lên hàng chục nghìn tấn, quay sang phục vụ cho vườn chuối.

Doanh nghiệp lựa chọn kinh tế tuần hoàn để chủ động sử dụng năng lượng sạch, bên cạnh các giải pháp tiết kiệm năng lượng điện, nước trong quá trình sản xuất… cũng như lắp đặt hệ thống quản lý chất lượng an toàn vệ sinh và hệ thống xử lý chất thải cũng như hướng đến các tiêu chí sản xuất xanh, sạch,…

Heineken Việt Nam là một ví dụ được nhắc đến như một điển hình. Doanh nghiệp này hiện có 6 nhà máy sản xuất bia và 10 văn phòng tại Việt Nam, đang hỗ trợ tới 212.000 việc làm, đóng góp 0,95% GDP và xếp thứ 5 trong 1.000 doanh nghiệp nộp thuế nhiều nhất cho ngân sách Việt Nam. Để góp phần chống biến đổi khí hậu, tham gia bảo vệ môi trường và duy trì phát triển bền vững, ở mỗi khâu trong quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm, doanh nghiệp đều chủ động thực hiện xanh hóa. Hiện nay, có 5/6 nhà máy sản xuất của Công ty Heineken đã thực hiện nấu bia bằng 100% năng lượng tái tạo. Trong khâu đóng gói, 100% chai bia và két được sử dụng lại, 100% lon bia được tái chế.

Trong khâu quản lý chất thải, 99% phụ phẩm, chế phẩm được tái chế, tái sử dụng. Trong khâu văn phòng và tổ chức các sự kiện, doanh nghiệp giảm 1% điện, 8% nước, 33% giấy. Ngoài ra, Heineken Việt Nam cũng tối ưu khâu phân phối sản phẩm, giúp giảm 2.000 tấn CO2; sử dụng 100% tủ lạnh xanh giảm 65% khí CO2; cải tiến trong bao bì giúp doanh nghiệp giảm 273 tấn giấy trong năm 2020. Rõ ràng, việc thực hiện tái chế đã đem lại lợi ích cho cả doanh nghiệp và xã hội, nhất là người dân ở địa phương nơi triển khai dự án. Hiện Heineken gần như không còn chất thải chôn lấp, vì 99% chất thải đã được tái sử dụng, tái chế trong quá trình quay vòng sản xuất.

Đoàn công tác của Bộ Khoa học và Công nghệ làm việc với Tổ chức Sở hữu trí tuệ Pháp

Theo thống kê, hiện nay, Unilever Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong việc sử dụng nhựa như giảm 55% nhựa nguyên sinh, 62% bao bì sản phẩm có thể tái chế và 100% bao bì nhựa cứng đều có sử dụng nhựa tái chế. Ngoài ra, Tập đoàn này còn có kế hoạch thực hiện loại bỏ nhiên liệu hóa thạch trong công thức của các sản phẩm tẩy rửa và giặt giũ. Tính đến nay, khoảng 96% sản phẩm chăm sóc gia đình của Unilever Việt Nam có thành phần có thể phân hủy sinh học. Bên cạnh đó, DN cũng hướng đến việc biến CO2 từ khí thải công nghiệp thành các hóa chất và khoáng chất hữu ích để phục vụ cho công tác sản xuất các sản phẩm chăm sóc gia đình. Việc áp dụng phương pháp này trong thời gian gần đây đã giúp Unilever trên toàn cầu giảm tới 28% khí nhà kính trong các công thức sản phẩm.

Đáng chú ý, hiện 100% nhà máy, văn phòng, cơ sở nghiên cứu và phát triển, trung tâm dữ liệu, kho hàng và trung tâm phân phối của Unilever trên toàn cầu đã sử dụng điện lưới tái tạo. Đây cũng là mục tiêu mà Samsung Việt Nam đang hướng đến khi mới đây, Tập đoàn điện tử hàng đầu thế giới này đã đặt vấn đề mua điện từ các nguồn điện tái tạo để sử dụng ở các nhà xưởng của mình.

Các doanh nghiệp Việt đã dần khẳng định vị thế của mình, cũng chính là nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm về chất lượng, tính minh bạch, an toàn, thân thiện môi trường, tuy vẫn còn nhiều khó khăn.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *