- Cắt giảm thuế nhập khẩu
Các thành viên CPTPP đã thống nhất sẽ giữ nguyên các cam kết về mở cửa thị trường hàng hóa của Hiệp định TPP trong khuôn khổ Hiệp định CPTPP. Theo đó, các thành viên CPTPP đều cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với gần như toàn bộ Biểu thuế quan nhập khẩu của nước mình. Các cam kết mở cửa thị trường được thể hiện chi tiết theo từng dòng thuế trong Biểu thuế nhập khẩu của mỗi nước CPTPP.
Nhìn chung, phần lớn các nước CPTPP áp dụng một mức thuế nhập khẩu chung cho tất cả các đối tác khác. Các nước áp dụng chung Biểu thuế quan nhập khẩu bao gồm Ốt-xtrây-li-a, Bru-nây, Ma-lai-xi-a, Niu-Di-lân, Pê-ru, Xinh-ga-po và Việt Nam. Trong khi đó, một số nước khác áp dụng Biểu thuế nhập khẩu riêng cho từng nước CPTPP khác nhau (Ca-na-đa, Chi-lê, Nhật Bản và Mê-hi-cô). Tuy nhiên, một số nước trong nhóm này như Chi-lê và Ca-na-đa chỉ áp dụng mức thuế nhập khẩu riêng với một số ít dòng thuế, còn lại thì áp dụng chung đối với phần lớn Biểu thuế.
Về cơ bản, các cam kết về xóa bỏ và cắt giảm thuế quan nhập khẩu trong CPTPP được chia làm ba nhóm chính:
- Nhóm xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay: Thuế nhập khẩu sẽ được xóa bỏ ngay khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực.
- Nhóm xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình: Thuế nhập khẩu sẽ được đưa về 0% sau một khoảng thời gian nhất định (lộ trình). Trong CPTPP, phần lớn là lộ trình 3-7 năm, tuy nhiên trong một số trường hợp, lộ trình có thể là trên 10 năm. Cá biệt, có một số rất ít dòng thuế có lộ trình xóa bỏ thuế nhập khẩu trên 20 năm.
- Nhóm áp dụng hạn ngạch thuế quan (TRQ): Đối với nhóm hàng hóa này, thuế nhập khẩu chỉ xóa bỏ hoặc cắt giảm với một khối lượng hàng hóa nhất định (gọi là xóa bỏ/giảm thuế trong hạn ngạch). Với khối lượng nhập khẩu vượt quá lượng hạn ngạch trong biểu cam kết, mức thuế nhập khẩu áp dụng sẽ cao hơn, hoặc không được hưởng ưu đãi.
Cam kết thuế nhập khẩu của các nước CPTPP đối với Việt Nam:
Các nước CPTPP cam kết xóa bỏ hoàn toàn từ 97% đến 100% số dòng thuế nhập khẩu đối với hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam, tùy theo cam kết của từng nước. Gần như toàn bộ hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào các nước CPTPP khác sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu hoàn toàn ngay khi Hiệp định có hiệu lực hoặc theo lộ trình. Một số cam kết thuế nhập khẩu của các đối tác CPTPP như sau:
- Ca-na-đa cam kết xoá bỏ thuế nhập khẩu cho 95% số dòng thuế và 78% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Ca-na-đa ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Trong đó, 100% kim ngạch xuất khẩu thủy sản và 100% kim ngạch xuất khẩu gỗ được xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực.
- Nhật Bản cam kết xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực đối với 86% số dòng thuế (tương đương 93,6% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản), và gần 90% số dòng thuế sau 5 năm. Trong Hiệp định CPTPP, Nhật Bản lần đầu tiên cam kết xóa bỏ hoàn toàn thuế nhập khẩu cho đại đa số nông, thủy sản xuất khẩu của ta.
- Pê-ru cam kết xóa bỏ 80,7% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, tương đương 62,1% kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam và sẽ xóa bỏ thuế quan đối với 99,4% số dòng thuế vào năm thứ 17 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực.
- Mê-hi-cô cam kết xóa bỏ 77,2% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, tương đương 36,5% kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam và sẽ xóa bỏ thuế quan đối với 98% số dòng thuế vào năm thứ 10 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực.
- Chi-lê cam kết xóa bỏ 95,1% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, tương đương 60,2% kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam và sẽ xóa bỏ thuế quan đối với 99,9% số dòng thuế vào năm thứ 8 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực.
- Ốt-xtrây-li-a cam kết cắt giảm 93% số dòng thuế, tương đương 95,8% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này (khoảng 2,9 tỷ USD) ngay khi thực hiện Hiệp định. Các sản phẩm còn lại sẽ được xóa bỏ thuế với lộ trình cắt giảm cuối cùng tối đa vào năm thứ 4.
- Niu-di-lân cam kết xóa bỏ 94,6% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, tương đương 69% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này (khoảng 101 triệu USD). Vào năm thứ 7 kể từ khi thực hiện Hiệp định, các dòng thuế còn lại sẽ dần được xóa bỏ hoàn toàn.
- Xinh-ga-po cam kết xóa bỏ hoàn toàn thuế quan đối với tất cả các mặt hàng ngay khi thực hiện Hiệp định.
- Ma-lai-xi-a cam kết xóa bỏ 84,7% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực và xóa bỏ dần có lộ trình đối với các dòng thuế còn lại. Vào năm thứ 11, số dòng thuế cam kết cắt giảm của Ma-lai-xi-a lên tới 99,9%.
- Bru-nây cam kết xóa bỏ 92% số dòng thuế đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam (tương đương 7.639 dòng) ngay khi Hiệp định có hiệu lực, xóa bỏ tới 99,9% vào năm thứ 7 và xóa bỏ hoàn toàn thuế nhập khẩu vào năm thứ 11.
Cam kết của các nước theo một số nhóm hàng:
Giày dép
78% kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang Ca-na-đa sẽ được hưởng thuế suất 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực hoặc được hưởng mức cắt giảm 75% so với mức thuế suất hiện tại. Riêng giầy da lần đầu tiên được Nhật Bản cam kết trong hiệp định thương mại tự do sẽ được giảm dần đều và xóa bỏ thuế nhập khẩu vào năm thứ 16 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Thuế nhập khẩu giầy dép vào Mê-hi-cô và Pê-ru cũng được giảm dần đều và xóa bỏ vào năm thứ 16 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực.
Thủy sản
Các mặt hàng thủy sản sẽ được hưởng thuế suất 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực khi xuất khẩu sang Ca-na-đa và Nhật Bản. Nhiều mặt hàng thủy sản trước chưa được cam kết xóa bỏ thuế quan trong hiệp định Việt Nam – Nhật Bản và ASEAN – Nhật Bản sẽ được hưởng thuế 0% khi xuất khẩu sang Nhật Bản, trong đó một số loài cá tuyết, surimi, tôm, cua … sẽ được hưởng thuế suất 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Cá tra, cá basa là mặt hàng thủy sản duy nhất xuất khẩu lớn sang Mê-hi-cô sẽ được hưởng thuế 0% vào năm thứ 3 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực.
Gạo
Với việc được hưởng thuế suất 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực, gạo sẽ có khả năng tiếp cận và tăng trưởng tại thị trường Ca-na-đa. Mê-hi-cô cũng là thị trường mới, xuất khẩu khoảng 70.000 tấn/năm và sẽ được hưởng thuế 0% vào năm thứ 11 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Riêng gạo xuất khẩu sang Nhật Bản vẫn chịu sự điều chỉnh bởi hạn ngạch thuế quan theo cam kết của Nhật Bản trong WTO. Tuy nhiên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và Bộ Nông nghiệp Nhật Bản đã ký Thỏa thuận Hợp tác Phát triển Chuỗi Giá trị Gạo nhằm cải thiện khả năng gạo Việt Nam trúng thầu hạn ngạch thuế quan WTO của Nhật.
Cà phê, chè, hạt tiêu, hạt điều
Các mặt hàng này sẽ được hưởng mức thuế suất 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Riêng Mê-hi-cô xóa bỏ thuế cà phê hạt Robusta vào năm thứ 16 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, cà phê hạt Arabica và cà phê chế biến giảm mức thuế suất 50% so với mức thuế hiện hành vào năm thứ 5 và năm thứ 10 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực.
Rau
0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Trong khi đó, xuất khẩu sang Nhật Bản sẽ được hưởng mức thuế suất 0% vào năm thứ 3 hoặc năm thứ 5 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực.
Mật ong
Thuế nhập khẩu của các nước CPTPP sẽ được xóa bỏ ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Riêng Nhật Bản sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với mật ong vào năm thứ 8 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Trong FTA Việt Nam-Nhật Bản và FTA ASEAN-Nhật Bản, mật ong Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản phải chịu hạn ngạch thuế quan. Đây là mặt hàng có khả năng phát triển trong tương lai nếu kiểm soát được chất lượng theo yêu cầu của nước nhập khẩu.
Nông sản chế biến
Sản phẩm từ gạo (bún, mỳ, phở…) sẽ được hưởng mức thuế suất 0% khi xuất khẩu sang Ca-na-đa. Riêng Nhật Bản sẽ áp dụng một lượng hạn ngạch nhỏ chung cho các nước CPTPP với mức thuế suất nhập khẩu trong hạn ngạch là 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực.
Rau quả chế biến sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu vào năm thứ 3-5-10 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, tùy từng loại, từng thị trường.
Sản phẩm chứa đường (bánh, kẹo, nước ngọt chứa đường) sẽ được hưởng mức thuế suất 0% vào năm thứ 11-16 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực.
Đồ gỗ
Xuất khẩu đồ gỗ nội ngoại thất sang các nước Ca-na-đa, Pê-ru sẽ được hưởng mức thuế suất 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực.
Vali, túi xách
Các mặt hàng vali, túi xách sẽ được hưởng mức thuế suất 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực khi xuất khẩu sang Ca-na-đa, Pê-ru, Nhật Bản. Riêng vali và túi xách bằng da, Nhật Bản xóa bỏ thuế nhập khẩu vào năm thứ 16 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Đây là lần đầu tiên Nhật Bản cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu cho vali, túi xách bằng da.
Hàng công nghiệp chế tạo khác
Phần lớn hàng công nghiệp chế tạo, máy móc, thiết bị, điện, điện tử khi xuất khẩu sang các nước CPTPP sẽ được hưởng mức thuế suất 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực.
Cam kết thuế nhập khẩu của Việt Nam:
Việt Nam cam kết một biểu thuế chung cho tất cả các nước CPTPP. Theo đó, Việt Nam sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 66% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực và 86,5% số dòng thuế sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Các mặt hàng còn lại có lộ trình giảm thuế chủ yếu từ 5 đến 10 năm.
Những mặt hàng Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định có hiệu lực gồm: động vật sống, thức ăn gia súc, một số sản phẩm sữa, ngũ cốc, gạo, da và sản phẩm da, cao su và sản phẩm cao su, chất dẻo, dược phẩm, thuốc trừ sâu, hóa chất, khoáng sản, một số loại giấy, nguyên liệu dệt may, da giầy, vải bông các loại, sản phẩm dệt may, phân bón, nước hoa, mỹ phẩm, máy móc thiết bị, đồ nội thất, gỗ và sản phẩm gỗ, nhạc cụ, linh kiện điện tử.
Những mặt hàng Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế quan vào năm thứ 4 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực gồm: bánh kẹo, chè và cà phê, ngô ngọt, đồng hồ, hàng gia dụng, máy khâu, máy phát điện, đồ trang sức, vật liệu xây dựng, sữa, máy móc thiết bị, nhựa và sản phẩm nhựa, sản phẩm điện tử.
Nhóm mặt hàng có lộ trình xóa bỏ thuế nhập khẩu vào năm thứ 6 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực gồm: dầu thực vật, chế phẩm rau quả, một số sản phẩm cao su.
Nhóm mặt hàng có lộ trình xóa bỏ thuế nhập khẩu vào năm thứ 8 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực gồm: bộ phận linh kiện xe đạp xe máy, một số linh kiện ô tô, sản phẩm sắt thép, bánh kẹo, chế phẩm thủy sản, dầu mỡ động thực vật, rau quả, sắt thép, xe đạp nguyên chiếc, một số loại xe chuyên dụng, thịt lợn đông lạnh.
Đối với một số mặt hàng đặc biệt nhạy cảm, Việt Nam có lộ trình trên 10 năm, ví dụ như bia, rượu, thịt gà, sắt thép, ô tô con dưới 3.000 phân phối. Việt Nam áp dụng hạn ngạch thuế quan (TRQ) đối với đường, trứng, muối (nằm trong lượng hạn ngạch WTO) và ô tô đã qua sử dụng.
- Đối xử quốc gia và mở cửa thị trường hàng hóa
Để đảm bảo các nước thành viên không duy trì hoặc mở rộng các rào cản thương mại khi đã cam kết xóa bỏ thuế quan, chương hàng hóa đã đưa vào tất cả các nghĩa vụ chung trong WTO về hạn chế xuất nhập khẩu như đối xử quốc gia (NT), không áp dụng hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu, minh bạch hóa thủ tục cấp phép nhập khẩu, tự do quá cảnh v.v…Tuy vậy, với mục tiêu nhằm nhằm tăng cường tiếp cận thị trường và giảm các rào cản thương mại giữa các nước CPTPP, CPTPP đã đưa ra một số quy định mang tính ràng buộc cao hơn nghĩa vụ WTO. Có thể kể ra một số quy định chính như sau:
- Mở cửa thị trường hàng tân trang
Theo Hiệp định CPTPP, hàng tân trang là các hàng hóa phân loại từ các Chương 84 đến 90 hoặc nhóm 94.02, ngoại trừ hàng hóa được phân loại ở các nhóm 84.18, 85.09, 85.10, và 85.16, 87.03hoặc phân nhóm 8414.51, 8450.11, 8450.12, 8508.11 và 8517.11, thu được toàn bộ hoặc một phần từ các nguyên vật liệu được thu hồi, có tuổi thọ và chức năng giống hệt hoặc tương tự hàng mới và có giấy bảo hành như hàng mới.
Các nước CPTPP cam kết kể từ khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực sẽ cho phép nhập khẩu các loại hàng tân trang kể cả khi cấm nhập khẩu hàng đã qua sử dụng cùng loại. Riêng Việt Nam sẽ chỉ cho phép nhập khẩu loại hàng này (nhưng loại trừ xe máy, xe đạp và một số máy móc điện-điện tử gia dụng như quạt điện, máy điều hòa không khí, máy sấy, máy rửa bát, máy giặt, máy hút bụi, v.v…) sau năm kể từ khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực.
- Yêu cầu thực hiện
Yêu cầu thực hiện đưa ra những nghĩa vụ đối với các doanh nghiệp, chẳng hạn như yêu cầu một tỉ lệ nhất định hàng hóa hoặc dịch vụ phải được xuất khẩu hoặc
- Minh bạch hóa thủ tục cấp phép xuất khẩu
Các nước CPTPP cam kết thông báo cho nhau thủ tục cấp phép xuất khẩu của mình (nếu áp dụng), bao gồm: các mặt hàng thuộc diện cấp phép, đối tượng và tiêu chí cấp phép. Cam kết này nhằm ngăn ngừa việc tạo rào cản đối với xuất khẩu thông qua thủ tục cấp phép xuất khẩu.
- Xóa bỏ thuế xuất khẩu
Trong khu vực CPTPP có 2 nước áp dụng thuế xuất khẩu là Việt Nam và Ma-laixia. Theo Hiệp định này, cả 2 nước cam kết xoá bỏ thuế xuất khẩu, ngoại trừ các nhóm mặt hàng được bảo lưu. Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế xuất khẩu đối với phần lớn các mặt hàng hiện đang áp dụng thuế xuất khẩu, cơ bản theo lộ trình từ 5-15 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Một số nhóm mặt hàng quan trọng như than đá, dầu mỏ và một số loại quặng, khoáng sản (70 mặt hàng) được tiếp tục duy trì thuế xuất khẩu, cụ thể:
– Nhóm khoáng sản: cát (Chương 25), đá phiến (2514), đá làm tượng đài hoặc xây dựng (2516), quặng dolomite (2518), quặng amiăng (2524), đá vôi (2521), quặng steatit (2526).
– Nhóm quặng: quặng đồng (2603), cô ban (2605), quặng nhôm (2606), quặng chì (2607), quặng kẽm (2608), quặng urani (2612), quặng thori (2612), quặng titan (2614), quặng zircon (2615), quặng vàng (2616) và quặng antimon (2617).
– Nhóm than: than đá (2701), than non (2702), than bùn (2703), và dầu thô (2709).
– Nhóm vàng (7108) và vàng trang sức (7113-7115).
Cũng như trong WTO, Hiệp định CPTPP cho phép các thành viên bảo lưu quy định cấm xuất khẩu, nhập khẩu một số mặt hàng với lý do bảo vệ sức khoẻ con người, môi trường, an ninh quốc gia, an toàn xã hội. Đối với Việt Nam, ta vẫn bảo lưu danh mục hàng hóa cấm xuất nhập khẩu như quy định hiện hành.
- Hàng nông nghiệp
- Xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu nông sản
Các nước CPTPP cam kết xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu đối với hàng nông sản kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Đây cũng là xu hướng chung mà các thành viên WTO đang hướng tới.
- An ninh lương thực
WTO cho phép các thành viên áp dụng các biện pháp hạn chế xuất khẩu lương thực tạm thời nhằm mục đích bảo đảm an ninh lương thực khi trong nước thiếu thốn lương thực trầm trọng. Trong Hiệp định CPTPP, các nước cam kết sẽ thông báo cho nhau khi một nước CPTPP áp dụng biện pháp hạn chế xuất khẩu nhằm mục đích trên, đồng thời cam kết tiến hành tham vấn và trao đổi thông tin với các nước CPTPP có nhu cầu nhập khẩu mặt hàng lương thực liên quan. Cam kết này nhằm đảm bảo những nước chủ yếu phải nhập khẩu lương thực (chẳng hạn như Xinh-ga-po) có điều kiện tham vấn, tìm giải pháp khắc phục khi nguồn nhập khẩu bị hạn chế.
- Không áp dụng tự vệ đặc biệt
Mặc dù Hiệp định Nông nghiệp của WTO cho phép các thành viên áp dụng biện pháp tự vệ đặc biệt để bảo hộ nông sản trong những điều kiện nhất định, các nước CPTPP cam kết không áp dụng biện pháp này đối với hàng nông sản có xuất xứ từ khu vực CPTPP nhằm thúc đẩy thương mại trong khu vực.
- Thương mại đối với sản phẩm biến đổi gen
Các nước CPTPP cam kết, khi luật pháp trong nước cho phép, phổ biến cho công chúng các hồ sơ cần thiết để đăng ký lưu hành trên thị trường các sản phẩm biến đổi gen, danh mục các sản phẩm biến đổi gen đã được phép lưu hành, báo cáo và phương pháp đánh giá rủi ro làm cơ sở cho việc cấp đăng ký lưu hành các sản phẩm này. Nước xuất khẩu sản phẩm thực vật chứa công nghệ biến đổi gen phải cung cấp cho nước nhập khẩu kết quả đánh giá rủi ro và phương pháp đánh giá đã tiến hành đối với sản phẩm đó nhằm mục đích giảm thiểu nguy cơ xảy ra sự hiện diện cấp thấp (LLP) của các tổ hợp biến đổi gen (rDNA) chưa được công nhận. Các nước CPTPP cũng cam kết, tùy thuộc quy định của luật pháp từng nước, cho phép các nhà phát triển công nghệ nộp đơn đăng ký lưu hành trên thị trường các sản phẩm biến đổi gen và xem xét các đơn này.
- Quản lý hạn ngạch thuế quan
Hiện nay, Việt Nam đang quản lý hạn ngạch thuế quan (TRQ) đối với 4 nhóm mặt hàng là trứng gia cầm, đường, lá thuốc lá và muối trong khuôn khổ WTO và các FTA đã ký kết.
CPTPP xây dựng một cơ chế quản lý hạn ngạch thuế quan theo tiêu chuẩn minh bạch, dễ dự đoán. Đây là một cơ chế mới, chưa từng xuất hiện trong bất kỳ Hiệp định nào mà ta đã ký kết trước đó. Cơ chế này quy định cụ thể quy trình vận hành, quản lý, phân bổ hạn ngạch thuế quan phù hợp với Điều XIII của GATT 1994 (bao gồm cả các ghi chú diễn giải) và Hiệp định cấp phép nhập khẩu của WTO. Các mặt hàng áp dụng TRQ trong biểu cam kết thuộc Hiệp định CPTPP sẽ thuộc diện điều chỉnh của cơ chế quản lý hạn ngạch thuế quan này.
Cơ chế này quy định mọi thủ tục quản lý TRQ phải được công bố công khai, công bằng và bình đẳng, không gây cản trở thương mại và phù hợp với điều kiện thị trường, được quản lý theo phương thức nhanh chóng, kịp thời. Mọi thông tin về quản lý TRQ, bao gồm lượng hạn ngạch, điều kiện để được cấp hạn ngạch, thủ tục nộp đơn, thời hạn nộp đơn, phương thức và thủ tục phân bổ, tái phân bổ đều phải được công khai hóa trên trang thông tin của chính phủ để đảm bảo tính minh bạch. Cơ chế này cũng quy định chi tiết các quy định về phân bổ, các thủ tục trả lại hạn ngạch nếu không dùng hết và tái phân bổ hạn ngạch, các yêu cầu về minh bạch hóa.
Về diện mặt hàng áp dụng TRQ trong Hiệp định CPTPP, Việt Nam cam kết dành một lượng hạn ngạch riêng với số lượng rất hạn chế cho các nước CPTPP đối với các mặt hàng lá thuốc lá và ô tô đã qua sử dụng. Các mặt hàng như đường, trứng gia cầm và muối sử dụng lượng hạn ngạch chung trong cam kết WTO của ta. Tất cả các mặt hàng này đều áp dụng cơ chế quản lý TRQ được quy định trong Hiệp định CPTPP.
- Dệt may
Hiệp định CPTPP là FTA đầu tiên Việt Nam tham gia có chương riêng về dệt may (chương 4). Ngoài việc áp dụng quy định chung như các hàng hóa khác tại các chương Thương mại Hàng hóa, Quy tắc Xuất xứ, Phòng vệ Thương mại, Hợp tác Hải quan, dệt may có những quy định riêng mang tính đặc thù. Chương Dệt may bao gồm các quy tắc xuất xứ cụ thể yêu cầu việc sử dụng sợi và vải từ khu vực CPTPP – điều này sẽ thúc đẩy việc thiết lập các chuỗi cung ứng và đầu tư khu vực trong lĩnh vực này. Chương cũng có những quy định linh hoạt về cơ chế “nguồn cung thiếu hụt” cho phép sử dụng một số loại sợi và vải nhất định không có sẵn trong khu vực. Ngoài ra, Chương này gồm các cam kết về hợp tác và thực thi hải quan nhằm ngăn chặn việc trốn thuế, buôn lậu và gian lận cũng như cơ chế tự vệ đặc biệt đối với dệt may để đối phó với thiệt hại nghiêm trọng hoặc nguy cơ bị thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất trong nước trong trường hợp có sự gia tăng đột biến về nhập khẩu.
Nội dung cam kết về dệt may bao gồm:
- Các quy tắc xuất xứ cụ thể yêu cầu việc sử dụng sợi và vải từ khu vực CPTPP nhằm mục đích thúc đẩy việc thiết lập các chuỗi cung ứng và đầu tư trong khu vực để tăng giá trị của hàng dệt may được sản xuất trong khối.
- Quy định linh hoạt về cơ chế “nguồn cung thiếu hụt” cho phép việc sử dụng một số loại sợi và vải nhất định không có sẵn trong khu vực.
- Các cam kết về hợp tác và thực thi hải quan nhằm ngăn chặn việc trốn thuế, buôn lậu và gian lận thương mại.
- Cơ chế tự vệ đặc biệt đối với hàng dệt may để đối phó với thiệt hại nghiêm trọng hoặc nguy cơ bị thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất trong nước trong trường hợp có sự gia tăng đột biến về nhập khẩu (khác với cơ chế tự vệ chung của Hiệp định).
Về mở cửa thị trường hàng dệt may
Hiệp định CPTPP sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với hàng dệt may có xuất xứ từ Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường các nước đối tác (ngay hoặc có lộ trình). Đối với những nước mà Việt Nam chưa có FTA, việc mở cửa thị trường này rất quan trọng, do thuế nhập khẩu áp dụng với hàng dệt may thường cao hơn nhiều so với các mặt hàng công nghiệp khác.
Với thị trường Ca-na-đa, toàn bộ mặt hàng dệt may xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sẽ được xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực hoặc sau 3 năm. 42,9% kim ngạch xuất khẩu vào Ca-na-đa có thuế 0% năm đầu tiên và 57,1% kim ngạch có thuế 0% vào năm thứ 4. Trong khi đó, Nhật Bản sẽ xóa bỏ 98,8% dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, tương đương với 97,2% kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam sang Nhật Bản. Đối với một số thị trường mà Việt Nam chưa có FTA như Pê-ru và Mê-hi-cô, thuế nhập khẩu của hàng dệt may được xóa bỏ hoàn toàn vào năm thứ 16.
Về quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may
Đối với hàng dệt may, quy tắc xuất xứ được áp dụng là “từ sợi trở đi” hay được gọi quy tắc “3 công đoạn”, nghĩa là toàn bộ quá trình kéo sợi, dệt vải, nhuộm, hoàn tất và may quần áo phải được thực hiện trong nội khối CPTPP. Quy tắc này khuyến khích phát triển chuỗi cung ứng ngành công nghiệp dệt may theo ngành dọc, khuyến khích đầu tư phát triển ngành sợi, vải, tạo cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng trong nội khối CPTPP.
So với các FTA trước đây mà Việt Nam đã ký kết, đây là quy tắc đưa ra yêu cầu ở mức cao. Tuy nhiên, các thành viên cũng thống nhất một số trường hợp có quy tắc xuất xứ mang tính linh hoạt hơn như:
- 3 nhóm hàng may mặc được áp dụng quy tắc xuất xứ 1 công đoạn, cắt và may, gồm vali, túi xách, áo ngực phụ nữ, quần áo trẻ em bằng sợi tổng hợp;
- Danh mục nguồn cung thiếu hụt gồm 194 loại sợi, vải được phép sử dụng từ ngoài khu vực CPTPP, trong đó 186 mặt hàng sẽ được áp dụng vĩnh viễn và 8 mặt hàng chỉ được áp dụng cơ chế này trong vòng 5 năm.
Tự vệ và hợp tác hải quan
Hiệp định CPTPP cho phép nước nhập khẩu áp dụng biện pháp tự vệ, tăng thuế ưu đãi trở lại mức thuế tối huệ quốc (MFN) nếu lượng nhập khẩu từ các nước CPTPP có khả năng gây ra hoặc gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến ngành sản xuất trong nước. Khi áp dụng biện pháp tự vệ, nước nhập khẩu phải có giải pháp đền bù thiệt hại về kinh tế mà nước xuất khẩu phải gánh chịu do không được hưởng thuế ưu đãi như trong Hiệp định.
Để nội luật hóa các cam kết này, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 19/2019/TT-BCT ngày 30 tháng 9 năm 2019 quy định về áp dụng các biện pháp tự vệ đặc biệt để thực thi Hiệp định CPTPP. Cụ thể, Thông tư quy định việc áp dụng biện pháp khẩn cấp đối với hàng dệt may khi kết luận điều tra của Cơ quan điều tra có: (i) sự gia tăng nhập khẩu tuyệt đối hoặc tương đối so với khối lượng, số lượng sản xuất trong nước của hàng dệt may bị điều tra từ một hay nhiều nước thành viên do kết quả hưởng ưu đãi thuế quan theo Hiệp định CPTPP, và (ii) ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại nghiêm trọng hoặc bị đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng do sự gia tăng nhập khẩu trên đây gây ra.
Các nước CPTPP thống nhất hợp tác chặt chẽ trong lĩnh vực hải quan, chống gian lận xuất xứ để hưởng lợi bất hợp pháp thuế ưu đãi CPTPP. Cũng với mục tiêu này, doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu dệt may sang Mê-hi-cô sẽ đăng ký các thông tin cơ bản về doanh nghiệp, mặt hàng sản xuất, xuất khẩu để chia sẻ thông tin với các cơ quan chức năng Mê-hi-cô phục vụ công tác đánh giá rủi ro trong lĩnh vực hải quan, phòng chống gian lận thương mại.Về phía Việt Nam, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 07/2019/TT-BCT ngày 19 tháng 4 năm 2019 quy định thương nhân xuất khẩu hàng dệt may sang Mê-hi-cô theo CPTPP (bao gồm cả thương nhân xuất khẩu theo hạn ngạch thuế quan và cả thương nhân xuất khẩu không theo hạn ngạch thuế quan) phải đăng ký thông tin với Bộ Công Thương để thực hiện cơ chế giám sát hàng dệt may xuất khẩu sang Mê-hicô theo CPTPP.
- Quy tắc xuất xứ
Hiệp định quy định 3 phương pháp để xác định xuất xứ của một hàng hóa, bao gồm: (i) hàng hóa có xuất xứ thuần túy; (ii) hàng hóa được sản xuất từ nguyên liệu trong khu vực CPTPP; và (iii) quy tắc cụ thể đối với từng mặt hàng (PSR).
Bên cạnh đó, quy tắc cộng gộp cho phép các nước CPTPP được coi nguyên liệu của một hoặc nhiều nước CPTPP khác như là nguyên liệu của nước mình khi sử dụng nguyên liệu đó để sản xuất ra một hàng hóa có xuất xứ CPTPP.
Quy định về hàng tân trang
So với các FTA khác, Hiệp định CPTPP có thêm quy định về hàng tân trang. Quy định này giúp bảo vệ môi trường và tạo thêm việc làm cho người lao động. Theo đó, các nguyên liệu thu được từ việc tháo dỡ hàng đã qua sử dụng, xử lý, làm sạch, đưa về điều kiện hoạt động tốt sẽ được coi là nguyên liệu có xuất xứ (không cần đáp ứng PSR) và những nguyên liệu này được lắp ráp thành sản phẩm có xuất xứ CPTPP. Quy định này giúp giảm bớt nguyên liệu nhập khẩu từ các nước ngoài khối CPTPP, tận dụng tối ưu nguồn nguyên liệu được tháo dỡ từ trong nước, giúp bảo vệ môi trường do không phải sản xuất thêm nguyên liệu, tận dụng được nguồn nhân công trong nước, giảm giá thành sản xuất nhưng vẫn đảm bảo chất lượng như hàng mới. Bên cạnh đó, giúp người mua chỉ phải trả giá ở mức thấp.
Quy định về quy tắc xuất xứ cho bộ hàng hoá
Hiệp định CPTPP đưa ra một số quy định mới về quy tắc bộ hàng hóa theo Quy tắc 3(c) của Quy tắc chung của diễn giải của Hệ thống hài hòa với linh hoạt cho phép hàng hóa không có xuất xứ trong bộ chiếm 10% trị giá của bộ hàng hóa. Hiệp định CPTPP cũng cho phép linh hoạt sử dụng giá FOB thay cho giá CIF khi tính trị giá nguyên vật liệu không có xuất xứ trong cách tính gián tiếp khi tính hàm lượng giá trị khu vực (RVC) giúp doanh nghiệp dễ đạt RVC hơn.
Quy định về cách tính Hàm lượng giá trị khu vực (RVC)
Về cách tính RVC, ngoài cách tính trực tiếp và gián tiếp, Hiệp định CPTPP có thêm quy định về cách tính trị giá tập trung (thêm linh hoạt nhất định) và cách tính theo chi phí tịnh (chỉ áp dụng đối với ô tô và phụ tùng ô tô).
Quy định về tỷ lệ De Minimis
Hiệp định CPTPP cho phép áp dụng tỷ lệ linh hoạt (De Minimis) đối với nguyên liệu không xuất xứ không đáp ứng tiêu chí tại PSR là 10% giá trị hàng hoá đang được xét xuất xứ. Tuy nhiên, Hiệp định cũng quy định một số trường hợp ngoại lệ không được phép áp dụng tỷ lệ De Minimis đối với nguyên liệu sử dụng để sản xuất mặt hàng bơ sữa, chế phẩm từ bơ sữa, một số loại nước ép hoa quả hay một số loại dầu ăn.
Thủ tục chứng nhận xuất xứ
Với mục tiêu tạo thuận lợi thương mại tối đa, giảm thời gian giao dịch và chi phí xuất nhập khẩu, Hiệp định CPTPP đã cho phép người xuất khẩu, người sản xuất và người nhập khẩu được tự chứng nhận xuất xứ. Đây là điểm rất mới so với các FTA truyền thống trước đây mà Việt Nam đã ký kết.
Đối với Việt Nam, do hình thức tự chứng nhận xuất xứ còn khá mới mẻ, chưa được triển khai toàn diện và đại trà nên ta được áp dụng một số thời gian chuyển đổi nhằm mục đích tạo cơ hội cho các doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước quen dần với hình thức này. Một số quy định về thời gian chuyển đổi bao gồm:
- Đối với hàng nhập khẩu: Việt Nam được bảo lưu chỉ áp dụng hình thức nhà nhập khẩu tự chứng nhận xuất xứ sau 5 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực.
- Đối với hàng xuất khẩu: ta được linh hoạt áp dụng song song 2 hình thức: (a) cấp chứng nhận xuất xứ (C/O) theo kiểu truyền thống; và (b) người xuất khẩu đủ điều kiện được tự chứng nhận xuất xứ trong thời gian tối đa 10 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Sau thời gian 10 năm này, Việt Nam sẽ áp dụng cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hoàn toàn như tất cả các nước CPTPP.
Về quy tắc xuất xứ cụ thể mặt hàng
Tương tự như các hiệp định FTA khác, Hiệp định CPTPP cũng quy định một danh mục quy tắc cụ thể mặt hàng (PSR). Một số tiêu chí xuất xứ trong PSR mang tính chất đặc thù và áp dụng đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam bao gồm:
Đối với các mặt hàng hóa chất, xăng dầu:
Quy tắc phản ứng hóa học, tách đồng phân, thay đổi kích hạt, nguyên vật liệu tiêu chuẩn, tinh chế, phối trộn trực tiếp, chưng chất, pha loãng được áp dụng song song bên cạnh quy tắc chuyển đổi mã số hàng hóa (CTC).
Đối với mặt hàng giày dép:
Quy tắc chuyển đổi mã số hàng hóa khá linh hoạt, cho phép sử dụng không giới hạn nguyên liệu nằm ngoài Chương 64 (giày dép) nhập khẩu bên ngoài CPTPP nhưng giới hạn việc sử dụng một số bộ phận giày dép không xuất xứ để sản xuất giày dép xuất khẩu, kèm theo quy định hàm lượng giá trị khu vực đạt ít nhất 45% (theo cách tính trực tiếp) hoặc 55% (theo cách tính gián tiếp).
Đối với nhóm mặt hàng nông lâm thủy sản:
Đối với hàng thủy sản: cho phép sử dụng con giống nhập khẩu bên ngoài CPTPP. Ngoài ra, tiêu chí xuất xứ cho một số mặt hàng cụ thể như sau:
Cá ngừ: Cá ngừ là mặt hàng nhạy cảm với Nhật Bản và Mê-xi-cô nên tiêu chí xuất xứ đối với cá ngừ hướng đến kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng cá ngừ nguyên liệu bên ngoài CPTPP (Nhật Bản lo ngại về nguồn gốc cá ngừ đánh bắt có hợp pháp hay không). Tiêu chí xuất xứ cho cá ngừ đòi hỏi gần như xuất xứ thuần túy của CPTPP.
Tôm, cua: Tôm, cua chế biến được phép sử dụng nguyên liệu bên ngoài CPTPP.
Cà phê: Cà phê đã rang có linh hoạt nhất định, được sử dụng nguyên liệu cà phê chưa rang bên ngoài CPTPP tới 60% khối lượng nguyên liệu sử dụng để chế biến hàng hóa. Cà phê hòa tan được sử dụng nguyên liệu không hạn chế bên ngoài CPTPP.
Chè: chè xanh chưa ủ men đóng gói sẵn trọng lượng không quá 3kg có thêm quy tắc linh hoạt hàm lượng giá trị khu vực 40%.
Hạt điều: mặt hàng xuất khẩu thế mạnh là điều đã bóc vỏ đạt được quy tắc linh hoạt cho phép sử dụng nguyên liệu bên ngoài CPTPP, tạo linh hoạt cho doanh nghiệp xuất khẩu điều của Việt Nam
Quy tắc xuất xứ đối với ô tô và phụ tùng ô tô:
Về cơ bản, tiêu chí xuất xứ cho ô tô và phụ tùng ô tô gồm 3 nội dung chính: Tiêu chí xuất xứ cho ô tô nguyên chiếc (thuộc nhóm 8701.10 đến 8701.30 và 8702 đến 8705): áp dụng tiêu chí xuất xứ hàm lượng giá trị khu vực (RVC) 55% theo cách tính gián tiếp hoặc 45% theo cách tính chi phí tịnh đi kèm linh hoạt khi xác định xuất xứ cho 7 phụ tùng (gồm thân xe, kính, ba-đờ-xốc, cầu chủ động có vi sai và các trục không lái …). 7 phụ tùng này không cần đáp ứng PSR, chỉ cần được sản xuất tại CPTPP, được sử dụng các nguyên phụ liệu không giới hạn bên ngoài CPTPP trong quá trình sản xuất và vượt quá một số công đoạn gia công (có quy định cụ thể các công đoạn gia công này) là được coi có xuất xứ CPTPP và được cộng vào RVC cho ô tô thành phẩm.
Tiêu chí xuất xứ cho các bộ phận chính gồm động cơ, hộp số, bộ phận lái, hệ thống giảm chấn, phanh, v.v. là RVC 55% (theo cách tính gián tiếp) hoặc 45% theo cách tính chi phí tịnh với linh hoạt cho phép sử dụng nguyên phụ liệu bên ngoài CPTPP chiếm 5-10% trị giá thành phẩm (tùy từng bộ phận), chỉ cần các bộ phận kể trên được sản xuất tại CPTPP và vượt qua một số công đoạn gia công.
Tiêu chí xuất xứ cho các bộ phận khác: RVC 40% hoặc quy tắc chuyển đổi mã số hàng hóa.
- Quản lý Hải quan và Hợp tác thương mại (QLHQ)
Chương QLHQ đặt ra các quy định yêu cầu các nước CPTPP đơn giản hóa thủ tục hải quan, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động trao đổi thương mại giữa các nước CPTPP. Bên cạnh đó, chương này cũng khuyến khích cơ quan hải quan tại các nước CPTPP tăng cường hợp tác với nhau để xây dựng thủ tục hải quan thuận lợi và hiệu quả, đảm bảo tính rõ ràng và công bằng cho các doanh nghiệp. Nội dung chính của chương này bao gồm:
- Minh bạch hóa
Các nước CPTPP phải công bố trên mạng và bằng tiếng Anh nếu có thể, các luật lệ về hải quan, các quy định và thủ tục. Các nước CPTPP cũng đồng ý thiết lập các điểm hỏi đáp để doanh nghiệp có thể trực tiếp đặt câu hỏi.
- Giải phóng hàng
Các nước CPTPP cam kết đảm bảo hàng hóa di chuyển qua biên giới càng nhanh càng tốt và trong chừng mực có thể, sẽ được giải phóng trong vòng 48 giờ kể từ khi hàng đến. Để ngăn ngừa sự chậm trễ trong trường hợp các cán bộ hải quan không đưa ra được quyết định về số thuế, lệ phí còn nợ, thì chương này sẽ đảm bảo hàng hóa đó có thể được giải phóng trên cơ sở đóng bảo lãnh hoặc tạm thanh toán thuế.
- Xác định trước
Nhận thấy các nhà xuất khẩu cần phải biết hàng hoá của mình sẽ được xử lý thế nào khi đến cảng nước ngoài, chương QLHQ yêu cầu các nước CPTPP phải xác định trước về các vấn đề hải quan quan trọng, bao gồm cả định giá hải quan, trước khi hàng hóa được vận chuyển. Quy định này cũng bao gồm các cam kết của các nước CPTPP đưa ra kết quả xác định càng nhanh càng tốt – không muộn hơn 150 ngày – sau khi nhận được yêu cầu, và để đảm bảo rằng các xác định này có hiệu lực cho ít nhất ba năm.
- Hàng phát chuyển nhanh
Do tầm quan trọng của chuyển phát nhanh đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp – đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ – chương QLHQ đòi hỏi hải quan các nước CPTPP phải xử lý khẩn trương các lô hàng phát chuyển nhanh. Điều này sẽ giúp di chuyển nhanh các lô hàng qua biên giới bằng cách tinh giản các chứng từ cần thiết để chuyển những lô hàng đó. Vì các lô hàng chuyển phát nhanh có các hình dạng và kích cỡ khác nhau, nên các nước CPTPP đã đồng ý loại bỏ bất kỳ hạn chế hiện hành nào về xử lý hải quan đối với hàng hóa vượt quá trọng lượng hoặc giá trị nhất định. Ngoài ra, các nước CPTPP sẽ không tính thuế hải quan đối với các lô hàng có giá trị dưới mức quy định của mỗi chính phủ để đẩy nhanh hơn nữa việc vận chuyển hàng hóa và giảm yêu cầu về chứng từ tài liệu. CPTPP tạm hoãn nghĩa vụ liên quan đến việc định kỳ xem xét ngưỡng miễn thuế có tính đến các yếu tố liên quan khác như tỉ lệ lạm phát, yếu tố ảnh hưởng đến tạo thuận lợi cho thương mại, ảnh hưởng về quản lý rủi ro, chi phí hành chính của việc thu thuế so với số thuế, chi phí thu được qua biên giới, ảnh hưởng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa hoặc các yếu tố khác liên quan đến thu thuế hải quan.
- Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT)
Chương TBT được xây dựng với mục tiêu hạn chế các hàng rào kỹ thuật không cần thiết đối với thương mại, tăng cường minh bạch hóa, thúc đẩy hợp tác trong quản lý và thực hành với mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi hơn cho thương mại. Bên cạnh đó, chương TBT cũng bảo đảm đầy đủ quyền của các chính phủ trong việc quản lý sản phẩm và các quy trình sản xuất đối với sức khỏe cộng đồng, chất lượng môi trường, và các mục tiêu chính sách công khác. Nội dung chính của chương này bao gồm:
- Đánh giá sự phù hợp
Các nước CPTPP sẽ dành “đối xử quốc gia” cho các cơ quan đánh giá sự phù hợp của nước khác, mà theo đó, việc thử nghiệm và cấp chứng nhận nếu được thực hiện bởi một một cơ quan đánh giá sự phù hợp của nước khác sẽ được chấp nhận là xác nhận rằng các sản phẩm, dịch vụ hoặc hệ thống của nước đó đáp ứng được yêu cầu của nước CPTPP kia. Quy định này sẽ tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các nhà xuất khẩu chỉ phải làm thử nghiệm hoặc chứng nhận một lần trước khi tiếp cận thị trường các nước CPTPP khác, giúp giảm chi phí và gánh nặng cho các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ.
- Minh bạch hóa
Chương TBT đảm bảo rằng các bên liên quan và các bên có quan tâm từ các nước CPTPP có cơ hội tham gia vào việc phát triển các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn và các thủ tục đánh giá sự phù hợp với các cơ quan chính phủ. Thí dụ các nước CPTPP sẽ công bố quy chuẩn kỹ thuật mới và quy trình đánh giá sự phù hợp, tạo cơ hội cho công chúng nhận xét, giải thích các quy định chính thức và thủ tục đánh giá phù hợp của một quốc gia CPTPP đáp ứng thế nào với các mục tiêu đưa ra; và cung cấp câu trả lời cho các vấn đề lớn được nêu.
- Thời gian tuân thủ
Chương TBT đảm bảo một khoảng thời gian hợp lý giữa công bố các quy định và thời điểm có hiệu lực để các bên liên quan có đủ thời gian đáp ứng các yêu cầu mới. Tương tự như vậy, các nước CPTPP đã cam kết cung cấp dành cho các nhà sản xuất một khoảng thời gian hợp lý để chứng minh sự phù hợp của hàng hoá của mình với các yêu cầu có liên quan.
- Các phụ lục
Chương TBT bao gồm một số phụ lục cho các lĩnh vực cụ thể để thúc đẩy các phương pháp quản lý chung cho toàn khu vực, bao gồm những phụ lục sau:
Phụ lục về mỹ phẩm, thiết bị y tế và dược phẩm
Phụ lục về mỹ phẩm, thiết bị y tế và dược phẩm khuyến khích việc áp dụng các thông lệ thực hành minh bạch và mở trong quản lý các sản phẩm trong các lĩnh vực này. Ví dụ, các nước CPTPP sẽ phải xem xét các hướng dẫn khoa học và kỹ thuật có liên quan khi xây dựng các quy định, cấp phép marketing dựa trên các tiêu chí cụ thể và công khai sẵn có, đưa ra lý do để từ chối các đơn xin và thiết lập các thủ tục cho phép kháng cáo để các nhà xuất khẩu không bị phân biệt đối xử không công bằng hoặc tùy ý ở các thị trường CPTPP.
Phụ lục về các sản phẩm công nghệ thông tin và truyền thông (ICT)
Phụ lục về ICT bao gồm các sản phẩm thương mại có chứa mật mã và thúc đẩy khả năng tương thích về điện từ của các sản phẩm thiết bị công nghệ thông tin. Đối với các sản phẩm công nghệ thông tin có chứa mật mã, các nước CPTPP cam kết không tiết lộ thông tin độc quyền để phù hợp với các quy chuẩn kỹ thuật hoặc quy trình đánh giá sự phù hợp.
Phụ lục về rượu vang và rượu chưng cất
Phụ lục về rượu vang và rượu chưng cất thiết lập các thông số cho việc ghi nhãn sản phẩm, trong khi vẫn giữ khả năng của các nhà quản lý nhằm bảo vệ người tiêu dùng. Chương này đưa ra một định nghĩa chung về “rượu vang” và “rượu chưng cất,” để tạo thuận lợi cho thương mại các sản phẩm này, và cũng quy định về ghi nhãn phụ của rượu vang và rượu chưng cất. Các nước CPTPP cam kết không từ chối các lô hàng nhập khẩu nếu chỉ vì sử dụng một số thuật ngữ và tính từ mô tả nào có liên quan đến rượu vang hoặc việc làm rượu vang.
Công thức của sản phẩm thực phẩm
Các nước CPTPP được quyền yêu cầu các công ty cung cấp thông tin về thực phẩm đóng gói và phụ gia thực phẩm. Đồng thời, chương này bảo vệ cho lợi ích thương mại chính đáng và thông tin độc quyền của các doanh nghiệp bằng cách yêu cầu các nước CPTPP đảm bảo bí mật thông tin liên quan đến công thức độc quyền mà các nước này đòi hỏi các doanh nghiệp cung cấp nhằm đáp ứng các quy chuẩn và các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật liên quan đến thực phẩm đóng gói và phụ gia thực phẩm.
Sản phẩm hữu cơ
Phụ lục về các sản phẩm hữu cơ thúc đẩy hoạt động trao đổi thương mại sản phẩm hữu cơ và khuyến khích sự hợp tác giữa các bên về các vấn đề liên quan đến sản xuất, chế biến, hoặc ghi nhãn sản phẩm hữu cơ.
- Dịch vụ và đầu tư
Hiệp định CPTPP quy định 4 nghĩa vụ chủ chốt là:
- Đối xử quốc gia (NT): Nước thành viên phải đảm bảo các nhà cung cấp dịch vụ của nước CPTPP khác được đối xử không kém thuận lợi hơn các nhà cung cấp dịch vụ trong nước.
- Đối xử tối huệ quốc (MFN): Nước thành viên phải đảm bảo các nhà cung cấp dịch vụ của một nước CPTPP được đối xử không kém thuận lợi hơn các các nhà cung cấp dịch vụ của các nước thành viên khác hoặc của bất cứ nước hay vùng lãnh thổ không phải là thành viên của hiệp định.
- Tiếp cận thị trường (MA): Nước thành viên không được phép duy trì các biện pháp hạn chế tiếp cận thị trường đối với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. Các biện pháp hạn chế tiếp cận thị trường được phân chia thành 5 loại như sau: (i) Hạn chế về số lượng nhà cung cấp dịch vụ; (ii) Hạn chế về tổng giá trị các giao dịch hoặc tài sản; (iii) Hạn chế về tổng số hoạt động dịch vụ hoặc số lượng dịch vụ cung cấp; (iv) Hạn chế về số lượng lao động; và (v) Hạn chế về hình thức thành lập doanh nghiệp.
- Hiện diện tại nước sở tại (LP):Nước thành viên không được yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ của nước CPTPP phải thiết lập hoặc duy trì văn phòng đại diện hay bất cứ hình thức công ty nào hay yêu cầu họ phải đáp ứng yêu cầu về thường trú như là điều kiện để được cung cấp dịch vụ.
- Lao động
Các tiêu chuẩn lao động của ILO
Với cách tiếp cận người lao động là người trực tiếp làm ra các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ trong thương mại quốc tế nên trước hết họ phải được hưởng thành quả của quá trình này, năm 1998, ILO đã ra Tuyên bố về những nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động và đến năm 2008 tiếp tục thông qua Tuyên bố về thúc đẩy việc bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình toàn cầu hóa công bằng. Đây cũng là cách tiếp cận của các FTA thế hệ mới và đang trở thành xu thế trên toàn cầu (nếu như vào thời điểm thành lập WTO năm 1995 mới có 4 hiệp định FTA có nội dung về lao động, thì đến tháng 01 năm 2015 đã có 72 hiệp định FTA quy định về nội dung này).
Hiệp định CPTPP là một hiệp định FTA thế hệ mới có quy định nội dung về lao động, nhưng không đưa ra tiêu chuẩn riêng mà chỉ áp dụng theo các tiêu chuẩn về lao động đã được nêu trong Tuyên bố năm 1998 về Những nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động của ILO, thể hiện trong 8 Công ước cơ bản, bao gồm các nội dung: (1) Quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể của người lao động và người sử dụng lao động (theo Công ước số 87 và số 98); (2) Xóa bỏ lao động cưỡng bức và lao động bắt buộc (theo Công ước số 29 và số 105); (3) Cấm sử dụng lao động trẻ em, xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (theo Công ước số 138 và số 182); (4) Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp (theo Công ước số 100 và số 111).
Việt Nam là thành viên của ILO từ năm 1992, đã phê chuẩn 5/8 Công ước cơ bản của ILO (bao gồm các Công ước số 29, 100, 111, 138 và 182) và đang chuẩn bị trình cơ quan có thẩm quyền phê chuẩn đối với 3 Công ước cơ bản còn lại (các Công ước số 87, 98 và 105). Nhưng theo Tuyên bố năm 1998 của ILO thì các nước thành viên dù đã phê chuẩn hay chưa phê chuẩn các Công ước cơ bản nêu trên đều có nghĩa vụ tôn trọng, thúc đẩy và thực hiện các tiêu chuẩn lao động được đề cập trong các Công ước đó. Như vậy, trên thực tế Việt Nam đã và đang thực hiện các quy định của ILO theo kế hoạch chủ động của mình.
Những nội dung chính về lao động trong Hiệp định CPTPP
- Về những nội dung liên quan đến xóa bỏ lao động cưỡng bức, lao động trẻ em, xóa bỏ phân biệt đối xử trong lao động thì về cơ bản, hệ thống pháp luật của Việt Nam đã phù hợp với các tiêu chuẩn của ILO và cam kết của Hiệp định. Việt Nam đã và đang triển khai một số chương trình hành động quốc gia để thực thi các tiêu chuẩn trên trong thực tiễn. Đối với cam kết về đảm bảo điều kiện lao động liên quan tới lương tối thiểu, giờ làm việc và an toàn lao động, hệ thống luật pháp của Việt Nam về cơ bản đã quy định đầy đủ về những nội dung này nên không có yêu cầu về việc sửa đổi, bổ sung.
- Về quyền thành lập tổ chức đại diện của người lao động, theo Hiệp định CPTPP và cũng phù hợp với quy định của ILO, Việt Nam và tất cả các nước tham gia Hiệp định CPTPP phải tôn trọng và bảo đảm quyền của người lao động trong việc thành lập và gia nhập tổ chức của người lao động tại cơ sở doanh nghiệp.
- Hiệp định CPTPP cũng như quy định của ILO đều khẳng định tất cả các tổ chức của người lao động phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật của nước sở tại và theo các tiêu chuẩn của ILO.
- Hiệp định CPTPP cũng có các quy định bảo vệ tổ chức của người lao động để không bị người sử dụng lao động can thiệp và phân biệt đối xử nhằm vô hiệu hóa hoặc làm suy yếu khả năng đại diện, bảo vệ cho quyền và lợi ích của người lao động. Điều này cũng phù hợp với quy định của ILO.
Cam kết về liên kết của các tổ chức của người lao động
Theo cam kết trong Hiệp định CPTPP, riêng Việt Nam có được thời gian chuẩn bị là 05 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực (tức là khoảng 07 năm kể từ khi ký Hiệp định) để đến khi đó sẽ cho phép các tổ chức của người lao động ở cấp cơ sở doanh nghiệp có thể gia nhập hoặc cùng nhau thành lập tổ chức của người lao động ở cấp cao hơn như cấp ngành, cấp vùng theo đúng trình tự đăng ký được pháp luật quy định một cách công khai, minh bạch. Tôn chỉ, mục đích, trình tự, thủ tục thành lập và phương thức hoạt động của các tổ chức của người lao động ở mức độ này cũng phải tuân thủ đầy đủ theo các quy định của pháp luật Việt Nam và phù hợp với các quy định của ILO. Thời gian chuẩn bị này là để Việt Nam hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức bộ máy quản lý để bảo đảm tốt nhất quyền lợi cho người lao động.
Quyền tự do liên kết được đề cập đến trong 2 Công ước này chỉ bao gồm quyền của người lao động cũng như của người sử dụng lao động được thành lập, gia nhập tổ chức đại diện cho mình nhằm mục đích tương tác trong quan hệ lao động. 2 Công ước này không điều chỉnh các hiệp hội cũng như các hoạt động không thuộc về quan hệ lao động.
- Mua sắm chính phủ
Mua sắm Chính phủ (MSCP) được hiểu là khoản chi do một cơ quan nhà nước hoặc cơ quan do nhà nước ủy quyền thực hiện để nhằm mục đích của chính phủ, do vậy, MSCP là một thị trường mà người mua gắn liền với Nhà nước như cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước.
Cũng như Luật Đấu thầu, Chương MSCP của Hiệp định CPTPP đưa ra các quy tắc, quy trình trong quá trình lựa chọn nhà thầu, tuy nhiên, ở mức độ yêu cầu cao hơn về tính công bằng, công khai, minh bạch. Các nội dung chính của chương MSCP bao gồm: Không phân biệt đối xử; Không sử dụng các biện pháp ưu đãi hàng hóa hoặc nhà thầu trong nước; và Biểu cam kết mở cửa thị trường MSCP quyết định phạm vi mở cửa của từng nước.
Theo đó, Việt Nam cam kết thực hiện mở cửa và thực hiện theo các đối tượng như sau:
(i) Chủ đầu tư, hay chính là bên mời thầu, bao gồm các đơn vị được liệt kê trong bản chào là 21 cơ quan cấp Trung ương, không cam kết với các cơ quan thuộc Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, Tòa án tối cao, Viện Kiểm sát tối cao. Đối với các Bộ Giao thông vận tải và Bộ Quốc phòng, Việt Nam chỉ cam kết mở cửa các gói mua sắm một số loại hàng hóa, dịch vụ nhất định.Việt Nam cũng cam kết mở cửa đấu thầu của 38 đơn vị sự nghiệp, bao gồm các bệnh viện thuộc Bộ Y tế, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học tự nhiên, Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Thông tấn xã Việt Nam.
(ii) Ngưỡng mở cửa của gói thầu được quy định riêng cho từng loại chủ đầu tư, bao gồm ngưỡng cho gói thầu mua sắm hàng hóa và dịch vụ nói chung, và ngưỡng cho mua sắm dịch vụ xây dựng. Ví dụ đối với các cơ quan trung ương, sau 15 năm chuyển đổi thì ngưỡng mở cửa là 8.5 triệu SDR đối với gói xây lắp, sau 25 năm thì ngưỡng đối với gói hàng hóa, dịch vụ là 130.000 SDR[3].
Riêng đối với 34 bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế, ngưỡng mở cửa gói thầu hàng hoá được áp dụng đối với gói thầu mua thuốc cho từng bệnh viện mà có thời gian thực hiện hợp đồng từ một năm trở lên, hoặc gói thầu mua thuốc tập trung do Bộ Y tế thay mặt các bệnh viện tổ chức lựa chọn nhà thầu. Trường hợp gói thầu mua thuốc của bệnh viện có thời gian thực hiện hợp đồng dưới một năm, ngưỡng mở cửa đối với gói thầu này là 500.000 SDR. Trường hợp gói thầu chỉ bao gồm một loại thuốc duy nhất, ngưỡng mở cửa là 180.000 SDR.
(iii) Đối với hàng hóa, dịch vụ, lĩnh vực xây dựng cần mua thuộc phạm vi mở cửa, Việt Nam chỉ bảo lưu những nội dung cần thiết, ví dụ bảo lưu việc mua xăng dầu, một phần thị trường thuốc, lúa gạo, sách báo v.v… Phần dịch vụ chỉ liệt kê các loại dịch vụ mở cửa cho nhà thầu của các nước CPTPP tham gia đấu thầu. Việt Nam cũng cam kết mở cửa đấu thầu các gói thầu dược phẩm, tuy nhiên, lộ trình mở cửa khá dài, 15 năm sau khi hiệp định có hiệu lực, Việt Nam mới mở cửa đến 50% tổng giá trị hợp đồng đối với các gói thầu thuộc diện diều chỉnh. Các loại thuốc mà Việt Nam phải ưu tiên cho phép đấu thầu theo thứ tự: Thuốc generic thuộc Nhóm 1, thuốc generic thuộc Nhóm 2, thuốc generic thuộc Nhóm 3, thuốc generic thuộc Nhóm 4, thuốc generic thuộc Nhóm 5, cho tới khi mua đủ thuốc theo tỷ lệ phần trăm mở cửa cho năm đó.
(iv) Các thành viên cũng có thể áp dụng các loại trừ, ngoại lệ và các biện pháp trong thời kỳ chuyển đổi. Ví dụ như Việt Nam được loại trừ các gói thầu xây dựng nghĩa trang liệt sỹ, loại trừ mua xăng dầu ở Phần Hàng hóa, dịch vụ, loại trừ việc mua sắm ở trong nước để tiêu dùng ngoài lãnh thổ, loại trừ các gói thầu mua sắm dự trữ quốc gia, mua sắm nhằm phục vụ mục đích tăng cường sức khỏe, phúc lợi, sự phát triển kinh tế, xã hội của dân tộc thiểu số, gói thầu dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, các gói thầu vì lý do an ninh, quốc phòng.
Hiệp định CPTPP cho phép các nước đang phát triển được phép áp dụng một số biện pháp trong thời kỳ chuyển đổi. Ví dụ như trong vòng 05 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam sẽ không chịu sự điều chỉnh của cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan tới các nghĩa vụ của mình theo Chương MSCP. Trong thời gian này, Việt Nam chỉ tham vấn với nước CPTPP có ý kiến quan ngại về việc thực thi nghĩa vụ của Việt Nam.
(v) Việt Nam được phép yêu cầu, xem xét, áp dụng hoặc thực hiện bất kỳ hình thức ưu đãi trong nước trong bất kỳ giai đoạn nào của quy trình lựa chọn nhà thầu trong 10 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, kể cả cơ chế ưu đãi về giá, ở mức tối đa 40% tổng giá hợp đồng các gói thầu thuộc phạm vi điều chỉnh của từng năm; tỷ lệ này giảm xuống mức tối đa 30% kể từ năm thứ 11 cho đến hết năm thứ 25. Biện pháp ưu đãi nội địa sẽ được loại bỏ từ năm thứ 26 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực đối với Việt Nam.
- Môi trường
Chương Môi trường thúc đẩy sự tương hỗ lẫn nhau giữa các chính sách về thương mại và môi trường; tăng cường bảo vệ môi trường ở mức độ cao và thực thi hiệu quả luật pháp về môi trường; tăng cường năng lực của các Bên để giải quyết các vấn đề về môi trường liên quan đến thương mại, bao gồm cả việc thông qua hợp tác.
Chương Môi trường bao gồm khoảng 25 trang với 23 Điều khoản và 02 Phụ lục, điều chỉnh hoạt động nhiều lĩnh vực và vấn đề môi trường có liên quan đến thương mại. Các quy định này đã được đưa vào thành những nghĩa vụ cam kết mang tính chất ràng buộc và bắt buộc các nước thành viên phải thực thi thông qua việc sử dụng công cụ về kinh tế, cụ thể là việc áp dụng cơ chế tham vấn và cơ chế giải quyết tranh chấp (có áp dụng chế tài thương mại) đối với những vấn đề phát sinh hoặc các tranh chấp về môi trường có liên quan đến thương mại và đầu tư giữa hai hay nhiều Bên.
Bên cạnh đó, chương Môi trường cũng có những điều khoản nhằm tăng tính minh bạch và tính nghiêm túc trong việc thực thi các nghĩa vụ của chương, cụ thể là nghĩa vụ phải tạo điều kiện cho công chúng được tham gia trong quá trình thực hiện; nghĩa vụ về chia sẻ và công khai thông tin liên quan đến việc thực hiện và nghĩa vụ khuyến khích, cho phép công chúng được tham gia giám sát quá trình thực thi các cam kết về môi trường. Các nội dung chính của chương này bao gồm:
Chính sách và pháp luật trong nước về môi trường
Xây dựng chính sách, pháp luật: Mỗi nước CPTPP phải cố gắng đảm bảo đầy đủ luật pháp và chính sách môi trường, khuyến khích việc bảo vệ môi trường ở mức cao và tiếp tục nâng cao các mức độ bảo vệ môi trường.
Thực thi chính sách và pháp luật: Mỗi nước CPTPP phải thực thi hiệu quả và nghiêm túc pháp luật về môi trường của mình mà không gây ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư giữa các nước CPTPP. Đồng thời không được phép bỏ qua, hay bằng cách nào đó giảm nhẹ hiệu lực pháp lý của các đạo luật và quy định mội trường của mình nhằm khuyến khích thương mại hay đầu tư giữa các nước CPTPP.
Các cam kết quốc tế về môi trường:
Các nước CPTPP khẳng định thực thi hiệu quả các cam kết trong các hiệp định đa phương về môi trường đã tham gia. Ngoài ra, chương Môi trường nhấn mạnh nghĩa vụ thực thi 03 điều ước quốc tế về môi trường là: Nghị định thư MONTREAL về các chất làm suy giảm tầng ô-zôn, Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm từ tàu biển (Công ước MARPOL) và Công ước quốc tế về buôn bán các loài động thực vật hoang dã đang bị đe dọa (Công ước CITES).
Tăng cường tính minh bạch và hiệu quả thực hiện:
Các nước CPTPP đồng ý công khai hóa thông tin, tăng cường sự tham gia và giám sát của công chúng trong quá trình thực thi. Ngoài ra, chương Môi trường cũng khuyến khích sự tham gia của khối tư nhân (doanh nghiệp) trong việc bảo vệ môi trường ví dụ như khuyến khích việc áp dụng các cơ chế tự nguyện nhằm nâng cao việc bảo vệ môi trường.
Trợ cấp thủy sản:
Liên quan đến nội dung về trợ cấp đánh bắt tự nhiên, chống thương mại trái phép hải sản đánh bắt từ tự nhiên là một trong những nội dung quan trọng của Chương Môi trường, các nước CPTPP đã cam kết:
Xóa bỏ trợ cấp cho hoạt động đánh bắt mà hoạt động đó được xác định là gây ra tác động xấu tới nguồn lợi hải sản đã trong tình trạng bị đánh bắt quá mức; Và xóa bỏ mọi hình thức trợ cấp cho các tàu đánh bắt bất hợp pháp, không theo quy định và không báo cáo.
Cam kết minh bạch hóa mọi chính sách và dữ liệu có liên quan đến các chương trình trợ cấp đánh bắt.
Cam kết thực hiện các biện pháp quốc gia cảng biển và quốc gia tàu treo cờ cũng như các kế hoạch hành động chống đánh bắt bất hợp pháp của các tổ chức nghề cá khu vực và quốc tế nhằm ứng phó và giải quyết vấn nạn đánh bắt bất hợp pháp và hành vi thương mại các sản phẩm đó.
Để thực thi các cam kết liên quan đến xóa bỏ trợ cấp như nêu ở trên, các nước có thời gian 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực với từng Bên để hài hòa hóa mọi chính sách liên quan. Riêng Việt Nam sẽ được gia hạn thêm 2 năm nếu có cơ sở thể hiện sự cần thiết phải có thêm thời gian chuyển tiếp.
Bảo tồn:
Trong Hiệp định TPP, các nước phải thực thi các biện pháp để chống lại và ngăn chặn hành vi khai thác và buôn bán động thực vật hoang dã trái với pháp luật của nước đó hay một luật áp dụng khác.
Luật áp dụng khác được hiểu là luật pháp của một nước mà việc khai thác và buôn bán động thực vật hoang dã xảy ra và chỉ liên quan đến vấn đề liệu những động, thực vật hoang dã đã được khai thác và buôn bán có trái với luật pháp nơi đó.
Các nước CPTPP đã thống nhất tạm hoãn nghĩa vụ phải thực thi các biện pháp để chống lại và ngăn chặn hành vi khai thác và buôn bán động thực vật hoang dã trái với một luật áp dụng khác. Điều này có nghĩa là các nước chỉ phải thực thi các biện pháp xử lý đối với các hành vi khai thác và buôn bán động thực vật hoang dã trái với pháp luật của nước mình theo quy định của Công ước quốc tế về buôn bán các loài động thực vật hoang dã đang bị đe dọa (CITES).
- Doanh nghiệp nhà nước
Các nghĩa vụ chính
Các nghĩa vụ chính theo Hiệp định bao gồm: (1) Các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) phải hoạt động theo cơ chế thị trường; (2) Các DNNN không được có hành vi phản cạnh tranh khi có vị trí độc quyền, gây ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư; (3) Minh bạch hóa một số thông tin như tỷ lệ sở hữu của Nhà nước, báo cáo tài chính đã được kiểm toán và được phép công bố; và (4) Nhà nước không trợ cấp quá mức, gây ảnh hưởng lớn đến lợi ích của nước khác.
Cam kết của Việt Nam
Các nghĩa vụ của Hiệp định chỉ áp dụng với các DNNN vượt ngưỡng doanh thu nhất định. Theo đó, các DNNN có doanh thu hàng năm dưới 16.000 tỷ VNĐ (vào thời điểm khi Hiệp định bắt đầu có hiệu lực) và dưới 6.500 tỷ VNĐ (khi Hiệp định có hiệu lực được 5 năm) sẽ không phải thực thi phần lớn các nghĩa vụ của Hiệp định.
Việt Nam bảo lưu loại trừ khỏi việc thực thi các quy định về DNNN của Hiệp định đối với tất cả các doanh nghiệp công ích, các hoạt động thực hiện các chương trình có ý nghĩa quan trọng chiến lược và các doanh nghiệp có hoạt động liên quan tới quốc phòng – an ninh Riêng một vài doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng hoặc Bộ Công an tham gia kinh doanh thông thường trên thị trường và có cạnh tranh với doanh nghiệp thông thường của các nước CPTPP thì vẫn phải tuân thủ cam kết.
- Sở hữu trí tuệ
Các cam kết chung
Các nước CPTPP tiếp tục khẳng định các mục tiêu của Hiệp định TRIPS của WTO, khẳng định sự cần thiết phải bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ để góp phần thúc đẩy đổi mới và chuyển giao và phổ biến công nghệ nhằm nâng cao lợi ích xã hội và kinh tế. Các nước được tự do quyết định phương pháp thích hợp trong việc thực hiện các quy định của Chương phù hợp với hệ thống pháp luật của mình trong thực tế.
Nhãn hiệu
- Đối tượng được bảo hộ: Ngoài các đối tượng được bảo hộ theo Hiệp định TRIPS của WTO, Hiệp định CPTPP còn quy định thêm việc bảo hộ với nhãn hiệu thương mại dưới hình thức âm thanh. Ngoài ra, các nước phải nỗ lực để cho phép đăng ký nhãn hiệu mùi hương.
- Thời gian bảo hộ: Các nước phải bảo hộ nhãn hiệu thương mại tối thiểu là 10 năm và có thể được gia hạn nhiều lần.
- Cải cách thủ tục hành chính: Các nước CPTPP đảm bảo thủ tục hành chính đơn giản, minh bạch trong đăng ký, gia hạn nhãn hiệu thương mại và sử dụng hệ thống đăng ký nhãn hiệu thương mại điện tử để tăng tính minh bạch của quy trình này.
Chỉ dẫn địa lý
Các nước CPTPP được quyền lựa chọn cơ chế bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý, hoặc là theo cơ chế riêng chỉ áp dụng cho chỉ dẫn địa lý, hoặc là theo cơ chế chung với nhãn hiệu thương mại. Tuy nhiên, các nước phải tuân thủ một số nghĩa vụ về tính minh bạch, căn cứ công nhận và thời điểm bắt đầu bảo hộ.
Sáng chế (Patents)
Hiệp định CPTPP đã tạm hoãn thực thi quy định trong Hiệp định TPP về việc vấn đề bảo hộ cho sáng chế đã công bố công khai, nếu việc công bố đó là do người nộp đơn sáng chế hoặc người có được thông tin trực tiếp hoặc gián tiếp từ người nộp đơn sáng chế, và nếu việc công bố đó thực hiện trong vòng 12 tháng ngay trước thời điểm nộp đơn đăng ký, và tạm hoãn một số các nghĩa vụ khác.
Bảo hộ SHTT đối với nông hóa phẩm
Chương SHTT yêu cầu các nước CPTPP phải bảo hộ đối kết quả thử nghiệm và dữ liệu bí mật liên quan đến sự an toàn và hiệu quả của các sản phẩm được coi là nông hóa phẩm.
Quy định liên quan đến dược phẩm
Các quy định về SHTT đối với dược phẩm tại CPTPP cân đối giữa (i) yêu cầu nâng mức bảo hộ và quyền của chủ sở hữu sáng chế dược phẩm của một số nước CPTPP mạnh về chế tạo, sản xuất, xuất khẩu dược phẩm và (ii) mong muốn bảo vệ tốt hơn sức khỏe cộng đồng qua việc duy trì khả năng tiếp cận của công chúng với dược phẩm với giá hợp lý của các nước còn lại.
Kiểu dáng công nghiệp
Các nước CPTPP phải bảo hộ kiểu dáng công nghiệp đối với cả các kiểu dáng chứa đựng trong một phần của một sản phẩm hoặc có một phần kiểu dáng riêng biệt so với toàn bộ sản phẩm và vẫn đảm bảo tuân thủ quy định của hiệp định TRIPS.
Quyền tác giả và các quyền liên quan
- Quyền của các chủ sở hữu: Các nước CPTPP phải bảo hộ quyền độc quyền của tác giả, người biểu diễn, người sản xuất trong việc cho phép hoặc cấm sao chép, truyền đạt tới công chúng, phân phối và phát sóng các tác phẩm, cuộc biểu diễn và bản ghi âm của họ trong bất kỳ cách thức hoặc hình thức nào, kể cả dưới dạng điện tử.
- Thời hạn bảo hộ: Đối với trường hợp chủ sở hữu quyền là cá nhân, thời hạn bảo hộ là cả cuộc đời cá nhân đó cộng thêm 70 năm kể từ ngày mất. Đối với trường hợp không phải cá nhân, thời hạn bảo hộ là 70 năm kể từ thời điểm công bố lần đầu tác phẩm. Nếu tác phẩm không được không bố trong vòng 25 năm kể từ ngày được tạo ra thì thời hạn này là 70 năm kể từ ngày tác phẩm được tạo ra. Việt Nam cam kết thực hiện nghĩa vụ này sau 5 năm kể từ khi TPP có hiệu lực. Tuy nhiên các nghĩa vụ này đã được tạm hoãn trong Hiệp định CPTPP.
- Biện pháp bảo vệ công nghệ: Biện pháp bảo vệ công nghệ trong chương SHTT được hiểu là bất kỳ công nghệ, thiết bị hoặc linh kiện hiệu quả nào, được sử dụng, vận hành để kiểm soát truy cập vào một tác phẩm, cuộc biểu diễn, hoặc bản ghi âm đã được bảo hộ, hoặc quyền liên quan đến chúng. Các nước được yêu cầu phải có các quy định, các thủ tục tố tụng hình sự và hình phạt để xử lý các trường hợp cố ý vi phạm.
Thực thi và bảo hộ quyền SHTT
- Nguyên tắc và ngoại lệ chung: Các nước CPTPP có quyền tự chủ trong việc xác định cách thức thực hiện các biện pháp thực thi và bảo vệ quyền SHTT nhưng phải thiết lập hệ thống pháp luật về các biện pháp xử lý các hành vi vi phạm SHTT hay phải đảm bảo triển khai các biện pháp thực thi một cách công bằng, thủ tục đơn giản, nhanh chóng, ít tốn kém, không tạo ra rào cản đối với thương mại và có cách thức để hạn chế lạm dụng.
- Thủ tục xử lý vi phạm SHTT: Các nước CPTPP có nghĩa vụ bảo đảm các phán quyết tư pháp và quyết định hành chính liên quan đến việc thực thi các quyền sở hữu trí tuệ phải được ban hành thành văn bản.
- Yêu cầu đặc biệt liên quan đến các biện pháp kiểm soát biên giới: Các nước CPTPP phải có các biện pháp thực thi bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu thương mại, quyền tác giả và các quyền liên quan tại biên giới.
- Các biện pháp xử lý hình sự: Các yêu cầu bắt buộc về xử lý hình sự đối với vi phạm SHTT tập trung vào các vi phạm đối với nhãn hiệu thương mại, quyền tác giả và quyền liên quan.
- Thương mại điện tử
Các quy định chính liên quan đến thương mại điện tử bao gồm:
Không thu thuế nhập khẩu đối với giao dịch thương mại điện tử
Các nước CPTPP không được đánh thuế nhập khẩu đối với việc giao dịch các sản phẩm số trên mạng. Đối tượng để áp dụng cơ chế không đánh thuế nhập khẩu là sản phẩm số được định nghĩa ở trên. Tuy nhiên, các nước CPTPP có quyền áp dụng các loại thuế, phí, lệ phí nội địa đối với các “nội dung được truyền bằng phương thức điện tử”, miễn là các loại thuế, lệ phí hoặc khoản thu đó phù hợp với các quy định của Hiệp định.
Không phân biệt đối xử sản phẩm số (trừ các khoản trợ cấp nhằm triển khai các chương trình của chính phủ và các chương trình phát thanh, truyền hình)
Nghĩa vụ không phân biệt đối xử sản phẩm số thiết lập cơ chế tạo thuận lợi thương mại, không có sự phân biệt đối xử đối với sản phẩm số được sáng tạo, sản xuất, phát hành, ký hợp đồng, đặt hàng hoặc xuất hiện lần đầu trên cơ sở hợp đồng thương mại trên lãnh thổ của nước CPTPP khác, hay không được có sự phân biệt đối xử với các sản phẩm số của các tác giả, người sản xuất, người trình diễn, người sở hữu của của nước CPTPP khác. Tuy nhiên, nghĩa vụ này không áp dụng đối với các khoản trợ cấp hay tài trợ bởi Chính phủ của một nước CPTPP, bao gồm những khoản vay, bảo lãnh, đảm bảo từ chính phủ đối với sản phẩm số để phục vụ các mục tiêu công cộng như bảo tồn văn hóa, bản sắc dân tộc, không áp dụng đối với phát thanh truyền hình.
Tự do lưu chuyển thông tin qua biên giới bằng phương thức điện tử
Nghĩa vụ của chương TMĐT loại trừ áp dụng đối với các thông tin, dữ liệu do Chính phủ hoặc Nhà nước nắm giữ hoặc xử lý, hoặc ủy quyền cho một cơ quan hay tổ chức nào được nắm giữ hoặc thu thập. Việc lưu chuyển thông tin, dữ liệu xuyên biên giới bằng phương thức điện tử chỉ để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của một pháp nhân. Các nước có quyền có những yêu cầu quản lý riêng về việc lưu chuyển thông tin bằng phương thức điện tử và có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để thực hiện các chính sách công cộng chính đáng, nhưng với điều kiện những chính sách này không tạo rào cản thương mại trá hình hay vận dụng theo hướng phân biệt đối xử hay tùy tiện.
Không yêu cầu sử dụng hoặc đặt trang thiết bị tại nước sở tại
Các nước CPTPP không được yêu cầu sử dụng hoặc đặt máy chủ tại nước sở tại như một điều kiện kinh doanh. Tuy nhiên, các nước CPTPP có quyền đưa ra yêu cầu quản lý riêng về việc sử dụng hoặc đặt máy chủ, bao gồm cả các yêu cầu để đảm bảo an ninh, bảo mật thông tin liên lạc; có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để thực hiện các chính sách công cộng chính đáng, nhưng với điều kiện những chính sách này không tạo rào cản thương mại trá hình hay vận dụng theo hướng phân biệt đối xử hay tùy tiện.
Lưu ý: Các nước CPTPP đồng ý không khiếu kiện Việt Nam nếu các quy định liên quan đến an ninh mạng của Việt Nam được cho là không phù hợp với Hiệp định CPTPP (cụ thể là 2 nghĩa vụ về tự do lưu chuyển thông tin xuyên biên giới và đặt hệ thống máy chủ tại nước sở tại trong Chương về Thương mại điện tử) trong vòng 5 năm kể từ khi Hiệp định CPCPTPP có hiệu lực.
Hợp tác an ninh mạng
Xuất phát từ tình trạng xuất hiện các hoạt động có tính chất nguy hiểm trên các mạng điện tử có thể gây tổn hại cho giao dịch điện tử, các nước ghi nhận tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực của các cơ quan quốc gia về việc ứng cứu đối với sự cố máy tính và tầm quan trọng của các cơ chế hợp tác để phối hợp xác định, giảm thiểu các hành vi xâm nhập nguy hiểm hoặc phổ biến mã độc gây ảnh hưởng đến mạng thông tin điện tử của các nước CPTPP.
Bảo lưu các biện pháp liên quan đến an ninh, quốc phòng, trật tự công cộng, quyền riêng tư
Các nước có quyền có những yêu cầu quản lý riêng về lưu chuyển thông tin hoặc dữ liệu xuyên biên giới bằng phương thức điện tử, sử dụng hoặc đặt máy chủ (bao gồm cả các yêu cầu để đảm bảo an ninh, bảo mật thông tin liên lạc); có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để thực hiện các chính sách công cộng chính đáng, nhưng với điều kiện những chính sách này không tạo rào cản thương mại trá hình hay vận dụng theo hướng phân biệt đối xử hay tùy tiện.
- Hợp tác và nâng cao năng lực
Thúc đẩy hợp tác và xây dựng năng lực
Các nước CPTPP công nhận tầm quan trọng của các hoạt động hợp tác và nâng cao năng lực và thực hiện cũng như tăng cường các hoạt động này, giữa hai hoặc nhiều nước trên cơ sở cùng nhất trí, để hỗ trợ việc thực hiện Hiệp định này và nâng cao các lợi ích có được từ Hiệp định nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và sự phát triển.
Quy trình hợp tác và xây dựng năng lực
Các nước CPTPP sẽ thành lập một Uỷ ban hợp tác và nâng cao năng lực để xác định và rà soát các lĩnh vực nỗ lực hợp tác hoặc nâng cao năng lực tiềm năng trên cơ sở tự nguyện và sự sẵn sàng của các nguồn lực.
- Phát triển
CPTPP là Hiệp định bao gồm các nước có trình độ phát triển rất khác nhau. Vì vậy, Chương Phát triển được xây dựng nhằm giúp các nước thành viên đang phát triển của CPTPP có thể tận dụng được tối đa cơ hội mà Hiệp định mang lại đối với các trọng tâm về phát triển. Nội dung chính của chương này bao gồm:
- Vai trò của phát triển: Các nước CPTPP công nhận tầm quan trọng của vấn đề phát triển trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn diện, thúc đẩy hội nhập kinh tế khu vực mà Hiệp định CPTPP đã đặt ra.
- Các ưu tiên trong phát triển: Các nước CPTPP đưa ra 3 lĩnh vực được xem xét hợp tác ngay khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực, bao gồm: (i) Tăng trưởng kinh tế ở diện rộng, (ii) Tham gia của phụ nữ vào tăng trưởng kinh tế, (iii) Giáo dục, Khoa học và Công nghệ, Nghiên cứu và Đổi mới
- Uỷ ban Phát triển nhằm thúc đẩy các hoạt động phát triển chung: Các nước CPTPP thành lập một Uỷ ban Phát triển nhằm thúc đẩy các hoạt động hợp tác tự nguyện để hỗ trợ cho các nền kinh tế đang phát triển trong CPTPP tận dụng cơ hội mà Hiệp định CPTPP mang lại.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Chương Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) đặt ra những quy định nhằm tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp này được tham gia và tận dụng được các cơ hội do Hiệp định CPTPP mang lại. Nội dung chính của chương này bao gồm:
Nghĩa vụ chia sẻ thông tin
Chương DNVVN yêu cầu các nước CPTPP phải thành lập hoặc duy trì một cổng thông tin điện tử công khai hoặc một trang tin điện tử cung cấp các thông tin về Hiệp định CPTPP, bao gồm cả các thông tin được thiết kế dành riêng cho các DNVVN. Các nước cũng sẽ liệt kê trong trang tin điện tử của mình cổng thông tin điện tử tương tự của các nước CPTPP khác.
Thành lập Ủy ban DNVVN
Các nước CPTPP đồng ý thành lập Ủy ban DNVVN nhằm bảo đảm sự tham gia của các DNVVN trong quá trình thực thi Hiệp định CPTPP cũng như hỗ trợ các DNVVN tận dụng được các lợi ích của Hiệp định.
- Hội tụ phương pháp hoạch định chiến sách
Thông qua chương Hội tụ về phương pháp hoạch định chính sách (HTCS), các nước CPTPP cam kết duy trì một môi trường pháp lý thông thoáng, công bằng và dễ dự đoán cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Chương này không ảnh hưởng đến quyền của các nước CPTPP trong việc điều chỉnh chính sách vì mục đích sức khỏe cộng đồng, bảo vệ môi trường và người lao động, bảo đảm quốc phòng – an ninh, ổn định tài chính và các mục đích vì lợi ích công cộng khác.
Nội dung cơ bản của chương này bao gồm:
- Tầm quan trọng của HTCS,
- Áp dụng các thực hành tốt về chính sách và
- Thúc đẩy khuôn khổ hợp tác CPTPP.
- Các ngoại lệ
Chương Ngoại lệ đặt ra những tình huống, hoàn cảnh, điều kiện cho phép một Bên được ban hành, áp dụng các biện pháp trái với các mục tiêu, nghĩa vụ đặt ra trong Hiệp định CPTPP. Nội dung chính của chương này bao gồm:
- Ngoại lệ chung
Chương Ngoại lệ bao gồm các ngoại lệ chung đã được quy định trong:
– Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT 1994), áp dụng cho các điều khoản liên quan đến “thương mại hàng hoá”,
– Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS), áp dụng cho các điều khoản liên quan đến “Thương mại dịch vụ”.
- Ngoại lệ về an ninh
Chương Ngoại lệ cho phép các nước CPTPP được áp dụng bất kỳ nào được cho là cần thiết để bảo vệ lợi ích an ninh thiết yếu của nước đó.
- Ngoại lệ về thuế
Chương Ngoại lệ nêu rõ những điều khoản cụ thể của Hiệp định CPTPP được áp dụng đối với các biện pháp thuế.
- Các biện pháp tự vệ tạm thời
Chương Ngoại lệ quy định về hoàn cảnh và điều kiện để một nước CPTPP có thể áp dụng các biện pháp tự vệ tạm thời nhằm hạn chế việc chuyển tiền (vốn, lợi nhuận, cổ tức, các khoản lãi v.v.).
- Các biện pháp kiểm soát thuốc lá
Các nước CPTPP được quyết định các biện pháp kiểm soát thuốc lá của mình mà không bị kiện theo cơ chế các nhà đầu tư kiện nhà nước (ISDS). 29.6. Công bố thông tin Chương Ngoại lệ quy định các nước CPTPP được phép không cung cấp hay cho phép tiếp cận các thông tin nếu việc đó trái với pháp luật của nước đó hoặc ảnh hưởng đến lợi ích công cộng, lợi ích thương mại hợp pháp của các doanh nghiệp