Hiệp định Thương mại tự do – Doanh nghiệp Hải Phòng cần biết “CHƯƠNG I. THÔNG TIN CHUNG VỀ HIỆP ĐỊNH CPTPP” CHƯƠNG I. THÔNG TIN CHUNG VỀ HIỆP ĐỊNH CPTPP ( tiếp)

  1. Cơ hội và thách thức CPTPP
  • CPTPP và những lợi ích đối với Việt Nam

Lợi ích về xuất khẩu

Việc các nước, trong đó có các thị trường lớn như Nhật Bản và Ca-na-đa giảm thuế nhập khẩu về 0% cho hàng hóa của ta sẽ tạo ra những tác động tích cực trong việc thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu. Theo đó, doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường các nước thành viên Hiệp định CPTPP sẽ được hưởng cam kết cắt giảm thuế quan rất ưu đãi.

Về cơ bản, các mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của ta như nông thủy sản, điện, điện tử đều được xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Với mức độ cam kết như vậy, theo nghiên cứu chính thức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, xuất khẩu của Việt Nam có thể sẽ tăng thêm 4,04% đến năm 2035.

Việc có quan hệ FTA với các nước CPTPP sẽ giúp Việt Nam có cơ hội cơ cấu lại thị trường xuất nhập khẩu theo hướng cân bằng hơn. Theo một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới được công bố vào tháng 3 năm 2018, dự báo đến năm 2030, xuất khẩu của Việt Nam sang các nước CPTPP sẽ tăng từ 54 tỷ đô-la Mỹ lên 80 tỷ đô-la Mỹ, chiếm 25% tổng lượng xuất khẩu.

Lợi ích về việc tham gia chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu

Các nước CPTPP chiếm 13,5% GDP toàn cầu với tổng kim ngạch thương mại hơn 10.000 tỷ USD, lại bao gồm các thị trường lớn như Nhật Bản, Ca-na-đa, Ốt-xtrây-lia sẽ mở ra nhiều cơ hội khi chuỗi cung ứng mới hình thành. Tham gia CPTPP sẽ giúp xu hướng này phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn, là điều kiện quan trọng để nâng tầm trình độ phát triển của nền kinh tế, tăng năng suất lao động, giảm dần việc gia công lắp ráp, tham gia vào công đoạn sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn, từ đó bước sang giai đoạn phát triển các ngành điện tử, công nghệ cao, sản phẩm nông nghiệp xanh… Đây là cơ hội lớn để nâng tầm nền kinh tế Việt Nam trong 5 – 10 năm tới.

Lợi ích đối với các ngành

Các ngành dự kiến có mức tăng trưởng lớn sẽ là thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, dệt may, một số phân ngành sản xuất và dịch vụ. Trong đó, mức tăng trưởng lớn nhất là ở các ngành thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, dệt may, hóa chất, sản phẩm nhựa và đồ da, trang thiết bị vận tải, máy móc và các trang thiết bị khác. Theo nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với các ngành công nghiệp nhẹ và thâm dụng lao động khác, CPTPP có thể tạo ra mức tăng trưởng bình quân từ 4% – 5% và mức tăng xuất khẩu có thể đạt từ 8,7% – 9,6%.

Lợi ích về cải cách thể chế

Cũng như tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tham gia CPTPP, một FTA thế hệ mới, sẽ là cơ hội để ta tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp luật kinh tế, trong đó có thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một trong ba đột phá chiến lược mà Đảng ta đã xác định; hỗ trợ cho tiến trình đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế của ta, đồng thời giúp ta có thêm cơ hội để hoàn thiện môi trường kinh doanh theo hướng thông thoáng, minh bạch và dễ dự đoán hơn, tiệm cận các chuẩn mực quốc tế tiên tiến, từ đó thúc đẩy cả đầu tư trong nước lẫn đầu tư nước ngoài.

Lợi ích về việc làm, thu nhập

Tham gia CPTPP sẽ tạo ra các cơ hội giúp nâng cao tốc độ tăng trưởng. Vì vậy, về mặt xã hội, hệ quả là sẽ tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao thu nhập và góp phần xoá đói giảm nghèo. Theo kết quả nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, CPTPP có thể giúp tổng số việc làm tăng bình quân mỗi năm khoảng 20.000 – 26.000 lao động. Đối với lợi ích về xóa đói giảm nghèo, theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, đến năm 2030, CPTPP dự kiến sẽ giúp giảm 0,6 triệu người nghèo ở mức chuẩn nghèo 5,5 đô-la Mỹ/ngày. Tất cả các nhóm thu nhập dự kiến sẽ được hưởng lợi.

Tăng trưởng kinh tế cũng giúp ta có thêm nguồn lực để cải thiện chất lượng nguồn nhân lực và chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Do các nền kinh tế của các nước thành viên CPTPP đều phát triển ở trình độ cao hơn Việt Nam và mang tính bổ sung đối với nền kinh tế Việt Nam, nhập khẩu từ các nước CPTPP chưa có FTA với ta phần lớn là không cạnh tranh trực tiếp, nên với một lộ trình giảm thuế hợp lý, kết hợp với hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, ta có thể xử lý được các vấn đề xã hội nảy sinh do tham gia CPTPP. Đặc biệt, do Hiệp định CPTPP bao gồm cả các cam kết về bảo vệ môi trường nên tiến trình mở cửa, tự do hóa thương mại và thu hút đầu tư sẽ được thực hiện theo cách thân thiện với môi trường hơn, giúp kinh tế Việt Nam tăng trưởng bền vững hơn.

  • Thách thức của CPTPP

Thách thức về kinh tế

Xét theo mặt hàng, một số chủng loại nông sản mà một số nước CPTPP có thế mạnh như thịt lợn, thịt gà là những mặt hàng Việt Nam đã sản xuất được nhưng sức cạnh tranh còn yếu. Tuy nhiên, do Hoa Kỳ đã rút khỏi Hiệp định nên sức ép cạnh tranh giảm đi đáng kể. Hơn nữa, với hai mặt hàng này, Việt Nam đã bảo lưu được lộ trình thực hiện tương đối dài (với một số chủng loại thịt gà là trên 10 năm). Đây là lộ trình dài hơn nhiều so với cam kết mở cửa thị trường của Việt Nam trong ASEAN vốn cũng rất cạnh tranh trong việc sản xuất một số loại thịt.

Một số sản phẩm công nghiệp mà một số nước CPTPP có thế mạnh cũng có thể gây khó khăn cho sản xuất của ta, ví dụ như giấy, thép, ô tô. Tuy nhiên, có cơ sở để cho rằng sức ép cạnh tranh sẽ không lớn vì hiện tại và trong tương lai 10 – 15 năm nữa sản phẩm của ta vẫn chủ yếu hướng đến phân khúc thị trường trung bình trong khi sản phẩm của các nước CPTPP thường hướng đến phân khúc thị trường cao cấp.

Để vượt qua thách thức này, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp – chăn nuôi, Chính phủ trong thời qua đã ban hành 3 Nghị định theo hướng cơ cấu lại ngành nông nghiệp, tổ chức lại sản xuất, thí điểm một số mô hình sản xuất tiên tiến, thúc đẩy ứng dụng khoa học – công nghệ, hỗ trợ doanh nghiệp và nông dân trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nông nghiệp v.v. để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp, từ đó đủ sức cạnh tranh trên sân nhà và vươn ra thị trường thế giới. Hiện nay, nhiều tập đoàn lớn của Việt Nam đã quan tâm đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp với các công nghệ sản xuất và quản lý tiên tiến trên thế giới. Với công nghệ và phương thức quản lý hiện đại, có cơ sở để tin rằng các sản phẩm do các tập đoàn này làm ra sẽ có khả năng cạnh tranh trên sân nhà. Theo kết quả đàm phán, việc mở cửa thị trường trong một số lĩnh vực nông nghiệp cũng sẽ được thực hiện theo lộ trình phù hợp để hỗ trợ cho tiến trình cơ cấu lại.

Với các sản phẩm khác, giải pháp chủ yếu cũng là kéo dãn lộ trình giảm thuế để có thời gian tái cơ cấu sản xuất trong nước, thúc đẩy đầu tư quy mô lớn và áp dụng công nghệ cao để nâng dần sức cạnh tranh. Theo hướng đó, lộ trình cần được sử dụng một cách chủ động, hiệu quả, tránh tình trạng ỷ lại vào lộ trình dẫn đến chậm đổi mới và từ đó là bị động, lúng túng khi thách thức đến. Đặc biệt, cần đổi mới và tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến để mọi doanh nghiệp đều nhận thức được cơ hội và thách thức của CPTPP nói riêng cũng như tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia các FTA thế hệ mới nói chung.

Thách thức về hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, thể chế

Để thực thi cam kết trong CPTPP, sẽ phải điều chỉnh, sửa đổi một số quy định pháp luật về thương mại, hải quan, sở hữu trí tuệ, lao động, công đoàn v.v. Sức ép phải thay đổi hệ thống pháp luật để tuân thủ những chuẩn mực mới của Hiệp định là có nhưng sẽ vượt qua được vì 3 lý do. Một là, những cam kết khó nhất, đòi hỏi nguồn lực thực thi lớn (ví dụ như trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ), đã được 11 nước “tạm hoãn” sau khi Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định TPP. Hai là, nhiều cam kết tuy mới nhưng lại phù hợp hoàn toàn với đường lối, chủ trương của Đảng cũng như pháp luật của Nhà nước (ví dụ như trong lĩnh vực mua sắm của Chính phủ, bảo vệ môi trường, doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp nhỏ và vừa…) nên sức ép thay đổi hệ thống pháp luật không lớn.

Ngoài ra, như kinh nghiệm gia nhập WTO đã chỉ ra, với sự chuẩn bị nghiêm túc và nỗ lực cao, ta có thể thực hiện thành công khối lượng công việc này, nhất là khi ta được quyền thực hiện theo lộ trình. Cụ thể, ngay sau khi Hiệp định được ký kết, Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành phối hợp với Bộ Tư pháp khẩn trương rà soát các quy định hiện hành trong các văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi phụ trách để từ đó đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung hoặc hình thức áp dụng phù hợp nhằm đảm bảo phù hợp với các yêu cầu của Hiệp định CPTPP. Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Kế hoạch của Chính phủ về thực thi Hiệp định CPTPP, trong đó phân công nhiệm vụ cho từng Bộ, ngành, cơ quan có liên quan triển khai các công việc cụ thể để bảo đảm việc thực thi đầy đủ và có hiệu quả Hiệp định này.

Thách thức về xã hội

Cạnh tranh tăng lên khi tham gia CPTPP có thể làm cho một số doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp vẫn dựa vào sự bao cấp của Nhà nước, các doanh nghiệp có công nghệ sản xuất và kinh doanh lạc hậu lâm vào tình trạng khó khăn (thậm chí phá sản), kéo theo đó là khả năng thất nghiệp trong một bộ phận lao động sẽ xảy ra. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, do phần lớn các nền kinh tế trong CPTPP không cạnh tranh trực tiếp với ta, nên ngoại trừ một số ít sản phẩm nông nghiệp, dự kiến tác động này là có tính cục bộ, quy mô không đáng kể và chỉ mang tính ngắn hạn.

Đồng thời, với cơ hội mới có được, ta sẽ có điều kiện để tạo ra nhiều việc làm mới, giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang các ngành ta thực sự có lợi thế cạnh tranh. Ngoài ra, với thời gian, thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài tăng lên, có lựa chọn hơn, cơ cấu sản xuất sẽ được điều chỉnh và nhiều việc làm mới sẽ được tạo ra.

Do vậy, để hỗ trợ các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, có thể tận dụng được tối đa những cơ hội cũng như giản thiểu những thách thức gặp phải trong quá trình thực thi Hiệp định, Chính phủ đã và đang chỉ đạo các Bộ, ngành tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn nhằm nâng cao nhận thức và sự hiểu biết của doanh nghiệp về các quy định, cam kết của Hiệp định. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng chỉ đạo các Bộ, ngành chủ động nghiên cứu, vận dụng các biện pháp phi thuế như các hàng rào kỹ thuật, các biện pháp phòng vệ thương mại được phép áp dụng theo các cam kết quốc tế của Việt Nam nói chung và Hiệp định CPTPP nói riêng để hỗ trợ cũng như bảo vệ lợi ích chính đáng của các ngành trong nước trước sự cạnh tranh của hàng nước ngoài. Ngoài ra, Chính phủ cũng sẽ có các biện pháp trợ giúp doanh nghiệp để chủ động xử lý kịp thời các tác động tiêu cực có thể xảy ra trong đó có việc tổ chức đào tạo lại đội ngũ lao động.

  1. CPTPP – Doanh nghiệp cần biết
  • Một số vấn đề chung

CPTPP khác gì với các FTA khác mà Việt Nam đã ký kết?

CPTPP khác với các FTA mà Việt Nam ký kết ở những điểm như sau:

–  Có phạm vi và mức độ cam kết  rộng hơn và sâu hơn. Ví dụ, diện cắt giảm thuế quan trong các FTA khác mà Việt Nam ký kết  chỉ đạt từ 78% (FTA giữa ASEAN và Ấn Độ) đến 98% (cam kết  trong ASEAN) trong khi  diện cắt giảm thuế của Việt Nam trong  CPTPP là gần 100%. Ngoài ra, mức độ cam kết về mở cửa lĩnh vực  dịch vụ và đầu tư trong CPTPP cao hơn hẳn so với các FTA khác.

–  Xử  lý các  vấn đề  thương  mại  phi  truyền thống như lao  động,  môi trường, mua sắm  chính  phủ,  doanh  nghiệp Nhà nước.  Các  FTA mà ta đã ký kết (ngoại trừ FTA với Liên minh châu Âu) đều không xử lý những vấn đề này.

Doanh  nghiệp  muốn  tìm  hiểu  về  Hiệp  định  CPTPP  thì  cần  phải  làm như thế nào?

Doanh  nghiệp  muốn  tìm  hiểu  về  Hiệp  định  CPTPP  có  thể  thông  qua  các  hình thức như sau:

– Cổng thông tin chính thức về Hiệp định CPTPP của Bộ Công  Thương

Để  đáp  ứng  nhu  cầu  tìm  hiểu  thông  tin  của  người  dân  và  doanh  nghiệp  trên  cả nước  về  Hiệp định CPTPP  một  cách  thuận  lợi  và  hiệu  quả  hơn,  Bộ  Công  Thương đã  nâng  cấp  toàn  bộ  cấu  trúc  và  nội  dung  của  chuyên  trang  thông  tin  điện  tử  về Hiệp định CPTPP tại địa chỉ:  http://cptpp.moit.gov.vn/.

Hiện  nay,  khối  lượng  và  nội  dung  các  thông  tin  được  cung  cấp  trên  chuyên  trang điện  tử  này  về  cơ  bản  là  tương  đương  với  thông  tin  được  cung  cấp  trên  trang thông tin điện tử về CPTPP của các nước, với 8 nội dung chính như sau:

–  Tổng  quan  về  CPTPP:

Phần  này  giới  thiệu  các  thông  tin  chung  về  Hiệp  định CPTPP  như  quá  trình  hình  thành,  nội  dung  chính,  sự  khác  nhau  giữa  CPTPP  và TPP,  cơ  hội  và  thách  thức  của  Hiệp  định  để  người  đọc  nắm  được  tổng  quan  về Hiệp định này.

–  Cam  kết  chính  của  CPTPP  trong  các  lĩnh  vực  chủ  chốt:  Phần  này  giải  thích  những cam  kết  hoặc  nội  dung  chính  mà  Việt  Nam  đã  cam  kết  trong  Hiệp  định  CPTPP trong  các  lĩnh  vực  chủ  chốt  bao  gồm:  Cắt  giảm  thuế  nhập  khẩu;  Dệt  may;  Quy  tắc xuất  xứ;  Dịch  vụ  và  đầu  tư;  Lao  động;  Mua  sắm  Chính  phủ;  Môi  trường;  Doanh nghiệp  nhà  nước;  Sở  hữu  trí  tuệ;  Thương  mại  điện  tử;  Hợp  tác  và  nâng  cao  năng lực;  Phát  triển;  Doanh  nghiệp  vừa  và  nhỏ;  Hội  tụ  phương  pháp  hoạch  định  chính sách.  Những  giải  thích  này  sẽ  là  thông  tin  tham  khảo  hữu  ích  cho  doanh  nghiệp để nắm rõ hơn về các cam kết của Hiệp định.

–  Các  thông  tin  hữu  ích  cho  nhà  xuất  khẩu:  Phần  này  giới  thiệu  về  quan  hệ  thương mại  song  phương  giữa  Việt  Nam  với  từng  đối  tác  CTPP,  liệt  kê  cam  kết  của  các nước  đối  tác  mà  Hiệp  định  đã  chính  thức  có  hiệu  lực  kể  từ  ngày  30  tháng  12  năm 2019  dành  cho  những  hàng  hóa  mà  Việt  Nam  có  lợi  thế  xuất  khẩu  như  nông  thủy sản,  giày  dép,  dệt  may,  va-li,  túi  xách,  đồ  điện,  điện  tử,  v.v.,  cũng  như  những  cam kết  về  mở  cửa  thị  trường  dịch  vụ  –  đầu  tư  cho  các  nhà  cung  cấp  dịch  vụ  của  Việt Nam.

– Toàn bộ văn kiện CPTPP: bằng tiếng Anh và bản dịch tiếng  Việt;

–  Cập  nhật  kết  quả  và  văn  kiện  có  liên  quan  tại  phiên  họp  của  Hội  đồng  và  các  Ủy  ban chuyên  môn:  Phần  này  cập  nhật  toàn  bộ  kết  quả  phiên  họp  Hội  đồng  CPTPP  lần thứ nhất đã tổ chức vào ngày 19 tháng 01 năm 2019 tại  Tô-ki-ô, Nhật Bản.

–  Kế hoạch thực  hiện  Hiệp định CPTPP của Chính phủ, các  Bộ,  ngành  và  các địa phương: Phần  này cập nhật Kế hoạch thực  hiện Hiệp định CPTPP của Thủ tướng Chính phủ, của các Bộ ngành, cơ quan cấp trung ương và cơ quan cấp địa phương.

–  Các  văn bản quy  phạm pháp luật  được  sửa đổi  hoặc  ban  hành mới  để  thực  hiện Hiệp định CPTPP:  Phần này  cập  nhật  các  văn  bản  quy  phạm  pháp  luật  đã  được ban hành, hoặc dự  thảo đang được lấy ý kiến.

–  Thông qua các hội thảo, hội nghị, khóa tập huấn Trong thời  gian qua, nhiều  hội thảo, hội  nghị,  khóa tập huấn về Hiệp  định  CPTPP đã  được tổ chức trên toàn quốc. Các doanh nghiệp có thể  tham  dự và trực tiếp trao đổi với các diễn giả hoặc ban tổ chức để có  thêm thông  tin về lĩnh vực mình quan tâm trong Hiệp định CPTPP.

–  Liên hệ  trực  tiếp  với  cơ  quan  đầu  mối  về Hiệp định  CPTPP  của  Bộ Công  Thương Theo  quyết  định  của Chính phủ,  Bộ  Công  Thương được  giao làm  cơ quan  đầu mối  về  Hiệp định  CPTPP và Bộ Công Thương  đã  giao Vụ  chính  sách  thương mại đa  biên là đơn vị  đầu mối  của  Bộ về Hiệp định  này.  Các  doanh  nghiệp có  thể trực  tiếp  liên  hệ  với Vụ  chính  sách thương  mại  đa  biên theo số  điện  thoại  (024) 22205420  hoặc (024)22202245  hoặc qua  địa  chỉ  email  là  wto_mtpd@moit.gov.vn.

Không  chỉ  tạo  khó  khăn  cho  các  DN  trong  1  số  ngành,  CPTPP  còn  gây áp  lực  cải  cách  thể  chế  –  nhất  là  khi  môi  trường  kinh  doanh  của  VN  đang  xếp cuối bảng trong 11 nước thành viên CPTPP

Việc  tham  gia  CPTPP-  một  FTA  thế  hệ  mới,  toàn  diện  và  chất  lượng  cao,  sẽ  là động  lực  để Việt  Nam  tiếp  tục  hoàn  thiện  khung  khổ  pháp  lý,  thể  chế,  cải  thiện môi  trường  đầu  tư  kinh  doanh  theo  hướng  thông  thoáng,  minh  bạch,  từ  đó  giúp tăng  cường  thu  hút  vốn  đầu  tư  của  nước  ngoài.  Cụ  thể  là,  các  FTA  này  đặt  ra  yêu cầu  hoàn  thiện  hệ  thống  pháp  luật  trong  nước  theo  hướng  công  khai,  minh  bạch và  dễ  dự  đoán;  các  yêu  cầu  và  tiêu  chuẩn  rất  cao  về  quản  trị  minh  bạch  và  hành xử  khách  quan  của  bộ  máy  Nhà  nước  theo  hướng  tinh  gọn  và  thúc  đẩy  cải  cách thủ  tục  hành  chính.  Ngoài  ra,  cam  kết  mở  cửa  thị  trường  dịch  vụ  –  đầu  tư  theo hướng  chọn  –  bỏ;  cam  kết  mở  cửa  thị  trường  mua  sắm  của  Chính  phủ;  doanh nghiệp  nhà  nước,  nguyên  tắc  “chỉ  tiến  không  lùi”  khi  đưa  ra  các  các  biện  pháp mở  cửa  thị  trường  dịch  vụ  –  đầu  tư,  yêu  cầu  xóa  bỏ  các  điều  kiện  đầu  tư  gây  “méo mó”  thương  mại,  các  quy  định  mang  tính  tiêu  chuẩn  cao  về  bảo  hộ  sở  hữu  trí tuệ,  v.v..  sẽ  đảm  bảo  sự  bảo  hộ  cao  hơn  đối  với  các  thành  quả  đầu  tư  cho  của  các doanh nghiệp nước ngoài. Đây  là  những  yếu  tố  quan  trọng  nhằm  tạo  nên  một  môi  trường  đầu  tư  kinh  doanh lành  mạnh,  góp  phần  thu  hút  sự  đầu  tư  ổn  định  lâu  dài  của  các  doanh  nghiệp trong  khu  vực  FTA  thế  hệ  mới  nói  riêng  và  doanh  nghiệp  trong  khu  vực  châu Á  –  Thái  Bình  Dương  nói  chung.  Với  những  tiền  đề  và  điều  kiện  đó,  có  cơ  sở  để tin  tưởng  rằng  Việt  Nam  sẽ  trở  thành  một  trong  những  điểm  thu  hút  đầu  tư  quan trọng  tại  khu  vực  Châu  Á  –  Thái  Bình  Dương  với  chỉ  số  xếp  hạng  sẽ  không  ngừng được cải thiện.

  Các  yêu  cầu  thực hiện của CPTPP đối với  Việt Nam có những khắt khe gì?

–  Để  thực  thi  cam  kết  trong  CPTPP,  Việt  Nam  sẽ  phải  điều  chỉnh,  sửa  đổi,  bổ  sung hoặc  ban  hành  mới  một  số  văn  bản  quy  phạm  pháp  luật  về  thương  mại,  hải  quan, sở  hữu  trí  tuệ,  lao  động,  công  đoàn,  v.v.  để  phù  hợp  với  cam  kết  của  Hiệp  định. Theo  kết  quả  rà  soát  265  văn  bản  quy  phạm  pháp  luật  ở  cấp  Trung  ương,  tổng  số văn  bản  quy  phạm  pháp  luật  được  kiến  nghị  sửa  đổi,  bổ  sung  là  12  văn  bản  bao gồm  08  luật,  03  nghị  định  và  01  quyết  định  của  Thủ  tướng  Chính  phủ.  Trong  đó, 08  luật  bao  gồm  Bộ  luật  Lao  động,  Luật  Sở  hữu  trí  tuệ,  Bộ  luật  Hình  sự,  Bộ  luật  Tố tụng  hình  sự,  Luật  Kinh  doanh  bảo  hiểm,  Luật  An  toàn  thực  phẩm,  Luật  Phòng, chống  tham  nhũng  và  Luật  Tố  cáo  (đã  được  Quốc  hội  thông  qua  tại  kỳ  họp  thứ  5, QH khóa XIV  vừa qua).

– Ngoài  ra,  Hiệp  định  CPTPP  đặt  ra  yêu  cầu  thực  hiện  khắt  khe  về  cơ  chế  giải quyết tranh chấp có tính ràng buộc chặt chẽ và chặt chẽ.

+  Cơ  chế  giải  quyết  tranh  chấp  giữa  Chính  phủ  với  Chính  phủ  (SSDS)  thiết  lập một  quy  trình  công  bằng,  minh  bạch,  kịp  thời  và  có  hiệu  quả  để  giải  quyết  các tranh  chấp  giữa  các  nước  CPTPP  nhưng  vẫn  đồng  thời  khuyến  khích  giải  quyết các  khiếu  nại  thông  qua  hợp  tác  và  tham  vấn  khi  có  thể  với  các  nghĩa  vụ  như:  bảo đảm  quyền  của  công  chúng  trong  việc  theo  dõi  quá  trình  tố  tụng  thông  qua  việc tuân  thủ  các  thủ  tục;  cho  phép  việc  sử  dụng  biện  pháp  trả  đũa  thương  mại  (dưới hình  thức  tạm  ngừng  các  ưu  đãi  hoặc  thanh  toán  một  khoản  tiền  ấn  định)  nếu một bên không thực thi các phán quyết của hội đồng trọng tài, v.v..

+  Cơ  chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và Nhà  nước  (ISDS) trong CPTPP cho phép  nhà  đầu  tư  nước  ngoài  được  tiến  hành  khởi  kiện  ra cơ quan trọng tài quốc tế trong một  số  trường  hợp khi  quyền  lợi  của nhà đầu tư bị chính  quyền  nước sở tại  xâm phạm  trái  với các tiêu chuẩn được Hiệp định đặt ra (ví  dụ trưng thu, tước quyền  sở hữu, tiêu chuẩn đối xử tối thiểu, v.v.), ngoại trừ  trường  hợp có tranh  chấp  phát  sinh từ  việc thực hiện  các cam  kết hay nghĩa vụ của hợp đồng đầu tư và chấp thuận đầu tư. Tuy nhiên, việc khởi  kiện có thể được thực hiện tại cơ quan trọng tài quốc tế và phải tuân thủ  các quy định và  quy trình được mô tả rõ ràng với các nghĩa vụ như minh bạch  hoá thủ tục trọng tài, sự tham gia của bên thứ ba, sự tham gia của bên không liên quan tới vụ kiện, v.v..

CPTPP ảnh hưởng như thế nào đến ngành chăn nuôi

Một  số  nước  CPTPP  (như  Hoa  Kỳ, Ô-xtrây-lia,  Niu Di-lân,  Chi-lê)  có  thế  mạnh  về các  sản  phẩm  chăn  nuôi, trong đó  nổi  bật  là  thịt  lợn  và  thịt  gà.  Trong  khi  đó, sức cạnh  tranh  của  các  mặt  hàng  này  của  Việt  Nam vẫn còn yếu.  Do vậy, Việt  Nam  có thể  gặp một  số  khó  khăn khi Hiệp  định có hiệu lực. Tuy  nhiên,  lộ  trình  xóa  bỏ thuế  quan  của các  mặt  hàng này tương  đối  dài  (với  một  số chủng loại thịt gà  là trên 10 năm) nên ngành  chăn  nuôi  sẽ có  thêm  thời  gian  để  thích  nghi, cải  tiến,  tổ chức  lại  sản xuất,  ứng  dụng  khoa  học – công nghệ  để  sản  phẩm  nông  nghiệp của Việt Nam đủ sức đứng vững trên sân nhà.

  • CPTPP và Thuế

Thời  điểm  bắt  đầu  áp  dụng  mức  thuế  suất  mới  theo  lộ  trình  xóa  bỏ thuế của các nước CPTPP được quy định như thế nào?

Thời  điểm  một  nước  CPTPP  bắt  đầu  áp  dụng  mức  thuế  suất  đầu  tiên  theo  mức cam  kết  trong  lộ  trình  xóa  bỏ  thuế  quan  của  mình  chính  là  thời  điểm  Hiệp  định có  hiệu  lực  đối  với  nước  đó.  Từ  năm  thứ  hai  sau  khi  Hiệp  định  có  hiệu  lực,  thời điểm  áp dụng  mức  thuế  suất  mới  theo  mức  cam kết trong  lộ  trình  xóa  bỏ thuế quan  là  ngày  01  tháng  01 hàng năm. Tuy  nhiên, riêng đối với Nhật  Bản, thời điểm áp dụng mức thuế suất  mới từ năm thứ  hai trở đi là vào ngày 01 tháng 4 hàng năm.

Trong  số  10  nước  tham  gia  ký  kết  CPTPP  với  Việt  Nam  thì  có  7  nước đã  có  quan  hệ  FTA  với  Việt  Nam.  Vậy  trong  trường  hợp  có  sự  khác  nhau  giữa mức  thuế  nhập  khẩu  của  các  nước  trong  FTA  này  và  CPTPP  thì  doanh  nghiệp có  được  lựa  chọn  mức  thuế  suất  có  lợi  nhất  không  và  điều  kiện  để  được  hương mức thuế suất đó là gì?  

Để  được  hưởng  mức  thuế  suất  ưu  đãi  trong  một  Hiệp  định  FTA  thì  hàng  hóa  của doanh  nghiệp  phải  đáp  ứng  được  các  quy  định  về  quy  tắc  xuất  xứ  của  Hiệp  định đó.  Do  vậy,  nếu  có  sự  khác  nhau  về  thuế  suất  trong  các  FTA  thì  doanh  nghiệp được  quyền  lựa  chọn  mức  thuế  suất  có  lợi  nhất  với  mình  miễn  là  doanh  nghiệp đáp  ứng  được  quy  tắc  xuất  xứ  của  FTA  có  mức  thuế  suất  mà  doanh  nghiệp  lựa chọn.

Với  việc  cắt  giảm  một  loạt  thuế  theo  cam  kết,  khi  CPTPP  có  hiệu  lực sẽ tác động thế nào tới nguồn thu ngân sách?

Việc cắt  giảm  thuế  nhập  khẩu  theo  cam  kết của Hiệp  định  CPTPP  sẽ  có tác  động nhất  định  tới  nguồn  thu  ngân sách  nhưng  không  nhiều.  Lý  do  là  vì  trong  số  các nước  thành viên  CPTPP  chỉ  còn  3  nước là  Ca-na-đa,  Mê-hi-cô  và  Pê-ru  là  chưa  có FTA  với  Việt Nam nhưng kim ngạch thương mại song  phương  giữa  Việt  Nam  và các  nước này này hiện  còn  khá  khiêm tốn.  Ngoài ra, với  việc  môi  trường  đầu  tư kinh  doanh  được cải  thiện, số  lượng  doanh  nghiệp  cũng  như  đầu  tư  nước ngoài gia  tăng sẽ  giúp  nguồn  thu  ngân  sách  nhà  nước được bổ  sung  thêm  từ  một số loại thuế khác như thuế thu nhập doanh nghiệp…

Từ ngày Hiệp định có hiệu lực,  Việt Nam giảm thuế nhập khẩu cho cá  tra  da  trơn  của  Ca-na-đa  từ  18%  hiện  nay  xuống  còn  0%,  và  tôm  hùm  Ca-nađa  từ  35%  xuống  còn  lại  15%.  Vậy  cuộc  chơi  CPTPP  có  lợi  gì  cho  nông  sản  và hoạt động xuất khẩu nông sản  Việt?

Một  số  ý  kiến  cho  rằng  Hiệp  định  CPTPP  sẽ  gây  khó  khăn  cho  hàng  nông  sản  Việt Nam  trong  bối  cảnh  sức  cạnh  tranh  của  ta  vẫn  còn  hạn  chế.  Tuy  nhiên,  nếu  nhìn một  cách  tổng  thể  thì  Hiệp  định  CPTPP  vẫn  là  cơ  hội  để  nông  sản  Việt  Nam  bứt phá. Điều này được thể hiện ở một số mặt sau:

Thứ  nhất,  hoạt  động  nông  sản  của  Việt  Nam  hiện  mới  chỉ  tập  trung  vào  một  số mặt  hàng  chính  và  một  số  bạn  hàng  lớn.  Tham  gia  CPTPP  sẽ  giúp  Việt  Nam  đa dạng  hóa  các  mặt  hàng  nông  sản  xuất  khẩu  và  mở  rộng  xuất  khẩu  sang  các  thị trường  lớn,  đặc  biệt  là  những  thị  trường  mà  Việt  Nam  chưa  có  FTA  như  Ca-na-đa, Pê-ru,  Mê-hi-cô.  Ví  dụ  như  mặt  hàng  gạo  khi  vào  Ca-na-đa  sẽ  được  xóa  bỏ  thuế quan  hoàn  toàn,  trong  khi  đó  91%  kim  ngạch  xuất  khẩu  thủy  sản  của  ta  sẽ  được xóa  bỏ  thuế  quan  tại  thị  trường  Nhật  Bản.  Các  mặt  hàng  chè,  hạt  điều  cũng  sẽ được xóa bỏ thuế quan ngay đối với các thị trường Pê-ru, Mê-hi-cô và Chi-lê v.v

Thứ  hai,  cơ  hội  mở  rộng  thương  mại  trong  CPTPP  còn  đến  từ  hoạt  động  đầu  tư xuyên  quốc  gia.  Khi  CPTPP  có  hiệu  lực,  dòng  vốn  đầu  tư  nước  ngoài  cho  ngành nông  nghiệp  sẽ  tăng  lên,  đặc  biệt  từ  các  nước  không  có  lợi  thế  về  nông  nghiệp. Từ  đó,  nền  nông  nghiệp  sẽ  tiếp  thu  được  khoa  học  công  nghệ  mới,  giúp  thay  đổi phương  thức  sản  xuất,  từng  bước  trở  nên  hiện  đại  và  hiệu  quả  hơn,  nâng  cao  sức cạnh  tranh.  Về  lâu  dài,  những  ngành  đang  phụ  thuộc  vào  nguyên  liệu  nước  ngoài cũng  sẽ  có  cơ  hội  đón  nhận  luồng  đầu  tư  từ  nước  ngoài,  từ  đó  giúp  doanh  nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu.

Lộ  trình  thuế  quan  trong  CPTPP  được  cho  là  một  trong  những  điểm được  trông  chờ  nhất.  Chẳng  hạn  như  ngay  sau  khi  CPTPP  có  hiệu  lực  thì  66% mặt  hàng  thuế  sẽ  được  đưa  về  0%,  86,5%  về  0%  sau  3  năm.  Người  Việt  kỳ  vọng được mua những mặt hàng như ô tô giá rẻ có phải vậy không?

Trong  CPTPP  Việt  Nam  chỉ  có  3  đối  tác  mới  là  Ca-na-đa,  Mê-hi-cô  và  Pê-ru.  Họ không  xuất  khẩu  nhiều  vào  Việt  Nam  và  lộ  trình  giảm  thuế  của  Việt  Nam  trong CPTPP  cũng  ở  mức  vừa  phải  nên  mức  độ  giảm  giá  hàng  hóa  nhờ  hiệp  định  này sẽ  rất  khó  nhận  biết.  Các  nước  như  Nhật  Bản,  Ốt-xtrây-li-a,  Niu  Di-lân,  Chi-lê v.v.  đều  đã  có  FTA  với  Việt  Nam  nên  CPTPP  sẽ  không  đem  lại  giá  trị  gia  tăng  lớn cho  họ.  Nói  đơn  giản,  giá  hàng  hóa  nhập  khẩu  từ  những  nước  này  cũng  sẽ  không giảm nhiều nhờ  CPTPP.

Với  riêng ô  tô,  ngoài  thuế  nhập  khẩu  còn có  thuế  tiêu  thụ  đặc biệt  và  các loại  phí. Nếu  giảm  thuế  nhập khẩu nhưng  lại  tăng  thuế  tiêu thụ  đặc biệt  và  các  loại  phí  thì giá  ô  tô  cũng  sẽ  không  giảm  như  mong  đợi. Đây  là  bài  toán  cân  đối  giữa  cơ  sở  hạ tầng  và  số  lượng  phương tiện, không  còn  là  bài  toán  bảo hộ  nữa.  Bên  cạnh  đó,  cơ cấu chủ thể tham gia  sản  xuất  và  nhập  khẩu  ô  tô  cũng  sẽ  có  tác  động  lớn  tới  giá ô  tô. Nói thế để  thấy  thuế  nhập  khẩu  đã,  đang và sẽ  không bao giờ là yếu tố duy nhất xác định giá ô tô.

  • CPTPP và Quy tắc xuất xứ

Doanh  nghiệp Việt  Nam  phải  làm  gì  để  giải  quyết  vướng  mắc  về  quy tắc xuất xứ

Để  được  hưởng  ưu  đãi  thuế  quan  từ  các  nước  CPTPP,  hàng  hóa  xuất  khẩu  của Việt Nam phải  đáp  ứng  quy  định  về  quy  tắc  xuất  xứ  và  thủ  tục  chứng  nhận  xuất  xứ  như quy  định  tại  Chương  3  –  Quy  tắc  xuất  xứ  và  thủ  tục  chứng  nhận  xuất  xứ  hàng  hóa của Hiệp định CPTPP.

Trường  hợp  gặp  vướng  mắc  liên  quan  đến  các  vấn  đề  về  quy  tắc  xuất  xứ,  chứng nhận xuất xứ, doanh nghiệp cần:

–  Nghiên  cứu  cụ  thể  các  văn  bản  quy  phạm  pháp  luật  hướng  dẫn  thực  thi  Chương Quy  tắc  xuất  xứ  của  Hiệp  định  CPTPP.  Cụ  thể  là  Thông  tư  số  03/2019/TT-BCT  ngày 22  tháng  01  năm  2019  và  Thông  tư  số  06/2020/TT-BCT  ngày  23  tháng  3  năm  2020 của Bộ trưởng Bộ Công  Thương;

–  Phối  hợp  với  nhà  xuất  khẩu,  nhà  sản  xuất,  hoặc  nhà  nhập  khẩu  để  tìm  hiểu  cụ thể vấn đề vướng mắc, cung cấp các chứng từ liên quan;

–  Cung  cấp  các  thông  tin,  chứng  từ  cần  thiết  theo  yêu  cầu  của  cơ  quan  Hải  quan hoặc  cơ  quan  nhà  nước  có  thẩm  quyền  liên  quan  để  kiểm  tra,  xác  thực  xuất  xứ của hàng hóa có liên quan;

–  Trường  hợp  không  thể  giải  quyết  được  vấn  đề,  doanh  nghiệp  có  thể  liên  hệ (bằng  văn  bản,  email  hoặc  qua  điện  thoại)  với  các  cơ  quan  sau  đây  để  được hướng dẫn, giải đáp:-  Cục  Xuất  nhập  khẩu,  Bộ  Công  Thương  (về  vấn  đề  chứng  nhận  xuất  xứ  liên  quan đến  hàng  hóa  xuất  khẩu),  địa  chỉ:  54  Hai  Bà  Trưng,  Quận  Hoàn  Kiếm,  Hà  Nội; điện  thoại:  (024)  2220.5444  –  2220.5361  –  2220.2468;  email:  xnk-xxhh@moit.gov. vn; hoặc-  Cục  Giám  sát  và  Quản  lý  về  hải  quan,  Tổng  cục  Hải  quan  (đối  với  chứng  nhận xuất  xứ  liên  quan  đến  hàng  hóa  nhập  khẩu),  địa  chỉ:  Lô  E3  –  Đường  Dương  Đình Nghệ, Phường  Yên Hòa, Quận Cầu Giấy, Hà Nội; điện thoại: (024) 39440833.

Doanh  nghiệp  làm  thế  nào  để  biết  hàng  hóa  của  mình  đạt  tiêu  chí xuất xứ hàng hóa theo CPTPP

Thông  tư  số  03/2019/TT-BCT  ngày  22  tháng  01  năm  2019  của  Bộ  trưởng  Bộ  Công Thương  quy  định  quy  tắc  xuất  xứ  hàng  hoá  trong  Hiệp  định  Đối  tác  Toàn  diện  và Tiến  bộ  xuyên  Thái  Bình  Dương  và  Thông  tư  số  06/2020/TT-BCT  ngày  24  tháng  3 năm  2020  của  Bộ  trưởng  Bộ  Công  Thương  sửa  đổi,  bổ  sung  một  số  điều  của  Thông tư số 03/2019/TT-BCT.

Hàng  hoá  được  coi  là  có  xuất  xứ  theo  Hiệp  định  CPTPP  khi  đáp  ứng  các  quy  định tại  Thông tư số 03/2019/TT-BCT  và  Thông tư số 06/2020/TT-BCT.

Để  xác  định  hàng  hoá  xuất  khẩu  có  xuất  xứ  theo  Hiệp  định  CPTPP  hay  không, doanh  nghiệp  cần  xác  định  chính  xác  mã  số  HS  của  hàng  hoá  xuất  khẩu  và  các nguyên  liệu  (nếu  có)  tham  gia  vào  quá  trình  sản  xuất.  Sau  đó,  xác  định  xem  hàng hoá  và  nguyên  liệu  tham  gia  vào  quá  trình  sản  xuất  đó  có  đáp  ứng  quy  định  tại Thông tư số 03/2019/TT-BCT  và  Thông tư số 06/2020/TT-BCT  hay không. Cụ thể:

–  Đối  với  hàng  hoá  không  phải  sản  phẩm  dệt  may:  khoản  1,  Điều  5  Thông  tư  số 03/2019/TT-BCT  quy định:

“Điều 5. Hàng hóa có xuất xứ

  1. Hàng hóa được coi là có xuất xứ nếu hàng hóa đó:
  2. a) Có xuất  xứ  thuần  túy  hoặc  được  sản  xuất  toàn  bộ  tại  lãnh  thổ  của  một  hay  nhiều Nước thành viên theo quy định tại Điều 6 Thông tư này;
  3. b) Được sản  xuất  toàn  bộ  chỉ  từ  nguyên  liệu  có  xuất  xứ  tại  lãnh  thổ  của  một  hay  nhiều Nước thành viên;
  4. c) Được sản  xuất  toàn  bộ  từ  nguyên  liệu  không có xuất  xứ  tại  lãnh  thổ  của  một  hay nhiều  Nước thành viên với điều  kiện hàng hóa  đó  đáp ứng tất  cả  các quy định tương ứng tại Phụ lục I (Quy tắc cụ thể mặt hàng) ban hành kèm theo Thông tư này.

–  Đối  với  sản  phẩm  dệt  may:  Tiêu chí xuất xứ đối  với  sản  phẩm  dệt  may  được  quy định tại Phụ lục VII (Quy  tắc cụ thể  mặt hàng đối với hàng  dệt  may) và Phụ lục VIII (Danh mục nguồn cung thiếu hụt) ban hành kèm theo Thông tư số 03/2019/ TT-BCT.

Quy  trình  thủ  tục  và  hồ  sơ  cấp  C/O  CPTPP  cho  hàng  xuất  khẩu  bao gồm những bước nào?

Thủ  tục  cấp  C/O  mẫu  CPTPP  cho  hàng  hóa  xuất  khẩu  ưu  đãi  thuế  quan  theo Hiệp  định  CPTPP  được  quy  định  tại  Nghị  định  31/2018/NĐ-CP  quy  định  chi  tiết Luật  Quản  lý  ngoại  thương  về  xuất  xứ  hàng  hóa  và  Thông  tư  số  06/2020/TT-BCT sửa  đổi,  bổ  sung  một  số  điều  của  Thông  tư  số  03/2019/TT-BCT.  Theo  đó,  doanh nghiệp cần thực hiện các bước sau để xin cấp C/O CPTPP cho hàng xuất khẩu:

– Đăng ký hồ sơ thương nhân tại địa chỉ  www.ecosys.gov.vn  hoặc  nộp  trực tiếp tại cơ quan, tổ chức cấp Giấy chứng nhận xuất  xứ hàng hóa. Doanh nghiệp chỉ được xem xét cấp Giấy chứng  nhận  xuất xứ  hàng hóa  khi  đã đăng ký hồ sơ thương nhân đầy đủ và  hợp  lệ  (quy  định  về  hồ  sơ  thương  nhân  hợp  lệ  tại  Điều 13 Nghị định 38/2018/NĐ-CP).

–  Khai báo hồ sơ đề nghị  cấp Giấy chứng nhận xuất xứ  hàng hóa theo biểu mẫu điện tử sẵn có trên Hệ thống quản lý và cấp chứng nhận xuất xứ điện tử của Bộ Công Thương tại địa chỉ  www.ecosys.gov.vn (quy  định về  hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng  nhận hàng hoá tại Điều 15 Nghị định 38/2018/NĐ-CP).  Theo đó, hồ sơ đề nghị  cấp C/O CPTPP  sẽ  sử  dụng  mẫu  C/O  được quy định tại Phụ lục III và Phụ lục IV Thông tư số 06/2020/TT-BCT.

–  Kết  quả  xét  duyệt  hồ  sơ  sẽ  được  cơ  quan,  tổ  chức  cấp  Giấy  chứng  nhận  xuất  xứ hàng  hóa  thông  báo trong thời hạn 6  giờ làm  việc  (nộp  điện  tử), 8 giờ làm  việc (nộp  trực tiếp), hoặc  24 giờ làm  việc  (nộp qua đường  bưu  điện)  kể  từ  khi cơ  quan, tổ  chức cấp Giấy chứng nhận  xuất  xứ  hàng  hóa nhận được hồ sơ đề  nghị  cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa đầy đủ và hợp lệ.

Mẫu  C/O  mẫu  CPTPP  được  quy  định  tại  Phục  lục  II  ban  hành  kèm  theo  Thông  tư số 06/2020/TT-BCT  ngày 24 tháng 3 năm 2020.

Tự  chứng  nhận  xuất  xứ  là  gì?  Doanh  nghiệp  nào  được  tự  chứng nhận xuất xứ trong khuôn khổ CPTPP?

Cơ  chế  tự  chứng  nhận  xuất  xứ  cho  phép  doanh  nghiệp  được  tự  chứng  nhận  và khai báo xuất xứ cho hàng hoá thuộc quyền sở hữu của mình.

Với  mục  tiêu  tạo  thuận  lợi  thương  mại  tối  đa,  giảm  thời  gian  giao  dịch  và  chi  phí phát  sinh  trong  hoạt  động  xuất  nhập  khẩu,  Hiệp  định  CPTPP  cho  phép  bất  kỳ nhà  xuất  khẩu,  nhà  sản  xuất  và  nhà  nhập  khẩu  được  tự  chứng  nhận  xuất  xứ.  Đây là  cơ  chế  chứng  nhận  mới  so  với  các  FTA  truyền  thống  trước  đây  mà  Việt  Nam đã ký kết

Đối  với  Việt  Nam,  ngay  khi  Hiệp  định  CPTPP  được  phê  chuẩn  và  có  hiệu  lực  trong nước,  Việt  Nam  thông  báo  với  các  nước  thành  viên  CPTPP  về  việc  Việt  Nam  áp dụng  cơ  chế  cấp  C/O  truyền  thống  và  mẫu  C/O  mẫu  CPTPP  của  Việt  Nam.  Theo quy  định  tại  Hiệp  định  CPTPP,  kể  từ  khi  Hiệp  định  có  hiệu  lực  đối  với  Việt  Nam, Việt  Nam  có  tối  đa  5  năm  để  chuyển  sang  áp  dụng  cơ  chế  nhà  nhập  khẩu  tự  chứng nhận  xuất  xứ  và  tối  đa  10  năm  để  chuyển  sang  áp  dụng  cơ  chế  nhà  xuất  khẩu,  nhà sản xuất từ chứng nhận xuất xứ.

  • CPTPP và quy định về nhập khẩu

CPTPP quy định về cấp phép nhập khẩu như thế nào

Về  cơ  bản,  Hiệp  định  CPTPP  quy  định  các  nước  không  được  áp  dụng  hay  duy  trì các  biện  pháp  về  cấp  phép  nhập  khẩu  trái  với  các  quy  định  của  WTO.  Tuy  vậy, CPTPP  đưa  ra  các  quy  định  nghiêm  ngặt  hơn  về  thủ  tục  minh  bạch  hóa  đối  với các  biện  pháp  này.  Cụ  thể,  các  nước  phải  thông  báo  đầy  đủ  và  theo  một  thời  hạn nhất  định  khi  áp  dụng  mới  hoặc  sửa  đổi  một  biện  pháp  về  cấp  phép  nhập  khẩu. Các  nước  cũng  phải  có  nghĩa  vụ  tiến  hành  tham  vấn  và/hoặc  trả  lời  câu  hỏi  của nước khác khi được yêu cầu về biện pháp được áp dụng.

Trong  mối  quan hệ  với doanh  nghiệp xin cấp phép nhập  khẩu,  nếu  một  nước từ chối  đơn  xin  cấp phép nhập khẩu đối với  một hàng hóa của một nước khác thì theo yêu cầu  của doanh nghiệp nộp đơn, nước đó phải trả lời  bằng văn bản lý do từ chối trong một khoảng thời gian hợp lý sau khi nhận được yêu cầu.

Các  quy  định  liên  quan  đến  phí  và  thủ  tục  hành  chính  đối  với  hàng nhập khẩu trong Hiệp định CPTPP có gì khác so với quy định của  WTO

Tương  tự  như  quy  định  trong  WTO,  Hiệp  định  CPTPP  quy  định  rằng  tất  cả  các loại  phí  và  lệ  phí  với  bất  kỳ  tính  chất  nào  (ngoại  trừ  thuế  xuất  khẩu, thuế  hải quan,  phí  tương  đương  với  thuế  nội  địa  hoặc  các  phí  nội  địa  khác,  thuế  chống bán  phá  giá  và  thuế  đối  kháng)  được  các  nước  áp  dụng  với  hoặc liên  quan đến xuất  khẩu,  nhập  khẩu  chỉ  được  giới  hạn  trong khoản giá trị tương  ứng  với  phí dịch vụ  phải  nộp  và  không  phải  là  phương thức  bảo  hộ  hàng  hóa nội  địa hoặc  là khoản thuế đánh vào hàng xuất khẩu, nhập khẩu nhằm mục đích tài chính.

Ngoài  ra,  một  quy  định  khác  với  CPTPP  là  các  nước  không  được  yêu  cầu  giao  dịch lãnh  sự  bao  gồm  các  loại  phí  và  lệ  phí  liên  quan  đến  việc  nhập  khẩu  bất  kỳ  hàng hóa nào từ nước thành viên CPTPP khác.

Hiệp  định  CPTPP  là  FTA  đầu  tiên  mà  Việt  Nam  có  cam kết  về  việc  nhập  khẩu  đối  với  hàng  tân  trang.  Cam  kết  cụ  thể  của  nội  dung này là gì

Theo  quy  định  của  CPTPP,  hàng  tân  trang  không  được  coi  là  hàng  đã  qua  sử dụng,  và  một  nước  khi  áp  dụng  hoặc  duy  trì  các  biện  pháp  cấm  hoặc  hạn  chế nhập  khẩu  hàng  hóa  đã  qua  sử  dụng  thì  các  biện  pháp  này  sẽ  không  được  áp dụng với hàng tân trang.

Theo  cam  kết  của  Hiệp  định,  Việt  Nam  không  có  nghĩa  vụ  phải  mở  cửa  hàng  tân trang  trong  3  năm  đầu  tiên  sau  khi  Hiệp  định  có  hiệu  lực.  Sau  thời  gian  đó,  Việt Nam  phải  mở  cửa  thị  trường  đối  với  hàng  tân  trang,  tức  là  cho  phép  nhập  khẩu hàng  tân  trang  nhưng  được  bảo  lưu  đối  với  1  số  mặt  hàng  gồm  quạt,  máy  điều hòa  không  khí,  bình  đun  nước  nóng,  máy  làm  khô  quần  áo,  máy  lọc  nước,  máy rửa  bát,  máy  khâu  gia  đình,  máy  hút  bụi,  mô  tô  và  xe  đạp  có  gắn  động  cơ,  xe  đạp không lắp động cơ với mã HS cụ thể như sau:

 

8414.51.91 – – – – Có lưới bảo vệ
8414.51.99 – – – – Loại khác
8415.10.10 – – Công suất không quá 26,38 kW
8415.10.90 – – Loại khác
8419.11.10 – – – Loại sử dụng trong gia đình
8419.19.10 – – – Loại sử dụng trong gia đình
8421.12.00 – – Máy làm khô quần áo
8421.21.11 – – – – Máy và thiết bị lọc sử dụng trong gia đình
8421.91.10 – – – Của hàng hóa thuộc phân nhóm 8421.12.00
8422.11.00 – – Loại sử dụng trong gia đình
8422.90.10 – – Của hàng hóa thuộc phân nhóm 8422.11
8452.10.00 – Máy khâu dùng cho gia đình
8508.19.10 – – – Loại phù hợp dùng cho mục đích gia dụng
8508.70.10 – – Máy hút bụi của phân nhóm  8508.11.00 hoặc 8508.19.10
8711 Mô tô (kể cả xe gắn máy có bàn đạp) và xe đạp có gắn động cơ phụ trợ, có hoặc không có thùng xe cạnh; mô tô thùng.
8712 Xe đạp hai bánh và xe đạp khác (kể cả xe xích lô ba bánh chở hàng) không lắp động cơ (trừ xe đạp đua có mã HS 8712.00.10)
  • CPTPP và lĩnh vực dệt may

Hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang thị trường các  nước CPTPP sẽ được hưởng những ưu đãi về thuế quan như thế nào?

Hiệp  định  CPTPP sẽ  xóa  bỏ  thuế  nhập  khẩu đối  với  hàng  dệt  may  có  xuất  xứ  từ Việt  Nam  khi  xuất  khẩu vào  thị trường  các  nước đối  tác  (ngay  hoặc  có  lộ  trình). Đối  với  những nước  mà Việt  Nam  chưa có  FTA, việc  mở  cửa  thị  trường này rất quan  trọng, do thuế  nhập  khẩu  áp  dụng với  hàng dệt may  thường  cao  hơn  nhiều so với các mặt hàng công nghiệp khác.

Về cơ bản, cam kết về xóa bỏ thuế nhập khẩu CPTPP đối  với hàng dệt may là khá cao, với hầu hết 80 – 99% dòng thuế  được xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực (trừ Mê-hi-cô). Cụ thể:

–  Ốt-xtrây-li-a  cam kết xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực với 81,8% dòng thuế dệt may của Việt Nam, và cắt giảm và xóa bỏ thuế theo lộ trình  3– 4 năm với 18,2% dòng thuế còn lại.

–  Niu Di-lân cam kết xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có  hiệu lực với 81,4% dòng thuế dệt may của Việt  Nam, và cắt giảm  và xóa bỏ thuế theo lộ trình  5 – 7 năm với 18,6% dòng thuế còn lại.

Lưu  ý:  Cần lưu ý rằng lộ trình cắt giảm thuế quan trong  CPTPP chậm hơn cam kết của Ốt-xtrây-li-a và Niu Di-lân dành  cho ViệtNam trong khuôn  khổ Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Ốt-xtrây-li-a,  Niu  Di-lân (AANZFTA) (toàn bộ hàng dệt may của Việt Nam được xóa bỏ thuế quan từ năm 2020 trong AANZFTA).

–  Xinh-ga-po  cam kết  xóa bỏ thuế quan ngay khi  Hiệp  định  có  hiệu lực với tất  cả các dòng thuế dệt may của Việt Nam.

–  Bru-nây cam kết xóa bỏ thuế quan ngay khi  Hiệp định có  hiệu lực với  95,2% dòng  thuế dệt may của Việt Nam, và cắt giảm  và xóa bỏ thuế theo lộ trình 7 năm với 4,8% dòng thuế còn lại.

– Ma-lai-xi-a cam kết xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực với 99,4% dòng  thuế  dệt may của Việt Nam, và cắt giảm  và xóa bỏ thuế theo lộ trình  6  năm với 0,6% dòng thuế còn lại.

Lưu  ý:  Lộ trình cắt giảm  thuế  quan  đối  với  hàng  dệt  may  Việt Nam của Xinh-ga-po, Bru-nây  và  Ma-lai-xi-a trong  CPTPP  chậm hơn cam  kết  trong  khuôn  khổ  Hiệp  định thương  mại  hàng hóa trong  ASEAN  (ATIGA) (toàn  bộ hàng dệt may  của  Việt  Nam được xóa bỏ thuế quan từ năm 2010 trong ATIGA).

–  Ca-na-đa cam kết xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có  hiệu lực với 88,8% dòng  thuế  dệt  may  của Việt Nam, cắt giảm và  xóa bỏ thuế theo lộ  trình  4 – 6 năm với 11,2% dòng thuế còn lại.

–  Pê-ru cam kết xóa bỏ thuế quan  ngay khi  Hiệp định có  hiệu lực với 13,3% dòng thuế dệt may của Việt Nam, cắt giảm và  xóa bỏ thuế theo lộ trình  6 – 16 năm với 86,7% dòng thuế còn lại.

Lưu  ý:  Ca-na-đa  và  Pê-ru  đều  chưa  có  FTA  nào  với  Việt  Nam  và  hiện  đang  duy  trì  mức thuế  MFN  trung  bình  đáng  kể  đối  với  mặt  hàng  này  (Ca-na-đa  là  15,79%  và  Pê-ru  là 10,88%  đối  với  các  sản  phẩm  dệt  may  Chương  61  –  63).  Do  đó,  các  cam  kết  cắt  giảm thuế  quan  trong  Hiệp  định  CPTPP  mà  hai  quốc  gia  này  dành  cho  hàng  Việt  Nam  là tương  đối  đáng  kể  và  dự  kiến  sẽ  đem  lại  lợi  ích  cho  doanh  nghiệp  Việt  Nam.  Tuy  nhiên, để  được  hưởng  thuế  ưu  đãi,  sản  phẩm  dệt  may  Việt  Nam  cần  tuân  thủ  quy  tắc  xuất xứ  CPTPP.  Ngoài  ra,  cần  lưu  ý  rằng  hiện  Pê-ru  chưa  phê  chuẩn  Hiệp  định  CPTPP,  nên các cam kết thuế quan này chưa có hiệu lực.

–  Mê-hi-cô  cam  kết  xóa  bỏ  thuế  quan  ngay  khi  Hiệp  định  có  hiệu  lực  với  27,6% dòng  thuế  dệt  may  của  Việt  Nam,  và  cắt  giảm  và  xóa  bỏ  thuế  theo  lộ  trình  5  –  16 năm  với  72,4%  dòng  thuế  còn  lại.  So  với  cam  kết  của  các  nước  thành  viên  CPTPP khác,  đây  không  phải  là  mức  cam  kết  cắt  giảm  thuế  quan  cao  đối  với  hàng  dệt may  Việt Nam.

–  Nhật  Bản  cam  kết  xóa  bỏ  thuế  quan  ngay  khi  Hiệp  định  có  hiệu  lực  với  98,5% dòng  thuế  dệt  may  của  Việt  Nam,  cắt  giảm  và  xóa  bỏ  thuế  theo  lộ  trình  11  năm với  1,2%  dòng  thuế  (24  dòng  thuế),  và  giữ  nguyên  mức  thuế  MFN  đối  với  0,3% dòng thuế (5 dòng thuế).

–  Chi-lê cam  kết  xóa  bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có  hiệu lực với  87%  dòng thuế  dệt  may của Việt Nam,và cắt giảm  và xóa bỏ thuế  theo  lộ  trình  4 – 8 năm  với 13%  dòng  thuế còn  lại. So sánh với  FTA  song  phương Việt Nam –  Chi-lê (VCFTA) đã có hiệu lực  từ  năm  2014  với  gần  một  nửa số dòng thuế  về  dệt may có  lộ  trình cắt  giảm  thuế  từ  5 – 10 năm, lộ trình cắt  giảm thuế  trong Hiệp  định CPTPP không thực sự đem lại lợi  thế  cho doanh  nghiệp  dệt may Việt Nam  xuất  khẩu sang thị trường này.

Lưu  ý:  Nhật  Bản  và  Chi-lê  đều  đã  có  FTA  song  phương  với  Việt  Nam  (VJEPA  đối  với Nhật  Bản  và  VCFTA  đối  với  Chi-lê)  và  đã  đưa  ra  những  cam  kết  cắt  giảm  thuế  quan đối với hàng dệt may cao hơn các cam kết trong Hiệp định CPTPP.

De  minimis  là  gì?  Quy  định  về  de  minimis  được  áp  dụng  như  thế nào đối với hàng dệt may trong CPTPP?

Trong  các  FTA,  các  nước  tham  gia  đàm  phán  thường  đưa  ra  quy  định  về  tỷ  lệ “linh  hoạt”  tối  đa  cho  phép  sử  dụng  một  lượng  nhỏ  nguyên  liệu  không  có  xuất xứ  và  không  đáp  ứng  tiêu  chí  chuyển  đổi  mã  số  hàng  hoá  (CTC  –  Change  in  Tariff Classification)  để  sản  xuất  và  hàng  hóa  vẫn  được  coi  là  có  xuất  xứ.  Tỷ  lệ  này  được gọi  là  “De  minimis”  và  là  tỷ  lệ  không  đáng  kể  nguyên  liệu  không  trải  qua  quá  trình chuyển đổi mã số hàng hóa nhưng vẫn được coi là có xuất xứ.

Hiệp  định CPTPP linh  hoạt  cho  phép  hàng  hóa  không  có  xuất  xứ  chiếm 10% trị  giá  của bộ hàng hóa và hàng  hoá  đấy  vẫn  được coi  là có  xuất xứ  CPTPP. Tuy nhiên, quy  định  này  không áp  dụng  đối  với các sản phẩm dệt  may  (có  quy  định riêng về De  minimis) và với  một  số mặt hàng được quy  định  cụ  thể trong Phụ lục 3-C (Các ngoại  trừ đối với Nguyên tắc De minimis) trong  Chương 3 của Hiệp định. Cụ thể, tỷ lệ De minimis  đối với hàng dệt  may trong Hiệp định CPTPP được tính dựa vào trọng lượng hàng hoá cuối cùng và được quy định như sau:

– Đối  với  hàng  dệt  may  thuộc  Chương  61  –  63  sử  dụng  xơ  hoặc  sợi  không  có  xuất  xứ: Trọng  lượng  của  xơ  hoặc  sợi  không  có  xuất  xứ  không  vượt  quá  10%  thành  phần quyết định đến phân loại mã số hàng hóa sử dụng xơ hoặc sợi đó;

– Đối với  hàng  dệt  may  không  thuộc  Chương  61  –  63:  10%  trọng lượng  của  hàng  hoá;

– Đối với hàng dệt may có chứa sợi co giãn (elastomeric  yarn)  trong thành  phần chính xác định phân loại mã số hàng hóa: Sợi co  giãn phải được sản xuất toàn bộ tại lãnh thổ của một hay nhiều nước thành viên.

Danh mục nguồn cung thiếu hụt là gì?

Danh  mục  nguồn cung thiếu hụt  là một cơ chế linh hoạt  cho  phép việc  sử dụng một số loại sợi và vải nhất định không có sẵn trong khu vực để sản xuất hàng dệt may mà vẫn được hưởng ưu  đãi  thuế quan theo CPTPP. Danh mục này được quy định trong Phụ  lục  4-A của Chương 4 Hiệp định TPP, bao gồm 194 loại sợi, vải được phép sử dụng từ ngoài khu vực CPTPP chia làm 2 nhóm:

– Danh  mục  nguồn  cung thiếu hụt tạm  thời:  bao  gồm  08  loại  nguyên liệu chỉ  được nhập khẩu từ các nước ngoài  CPTPP  trong vòng 5 năm  kể  từ khi Hiệp định có hiệu lực;

– Danh mục nguồn cung thiếu hụt vĩnh viễn: bao gồm 186 loại nguyên liệu được phép nhập khẩu vĩnh viễn từ các nước ngoài CPTPP.

  • CPTPP và Hải quan

Nếu  doanh  nghiệp  của  tôi  vận  chuyển  hàng  hoá  đến  cửa  khẩu  nước bạn,  chúng  tôi  đã  cung  cấp  các  giấy  tờ  cần  thiết  nhưng  vẫn  đang  gặp  tranh chấp về số tiền thuế hoặc phí phải đóng thì phải làm sao?

Theo  quy  định  của  Hiệp  định  CPTPP,  nhằm  tạo  thuận  lợi  thương  mại  giữa  các Bên,  nếu  bên  xuất  khẩu  đã  đáp  ứng  các  điều  kiện  giải  phóng  hàng  hoá  cần  thiết, cán  bộ  hải  quan  của  nước  nhập  khẩu  nếu  chưa  xác  định  được  mức  thuế  phí  phải đóng  thì  người  xuất  khẩu  có  thể  yêu  cầu  đóng  bảo  lãnh  hoặc  tạm  thanh  toán  thuế với  giá  trị  không  lớn  hơn  giá  trị  yêu  cầu.  Muộn  nhất  48  giờ  kể  từ  khi  hàng  đến, cán  bộ  hải  quan  cho  hàng  hoá  thông  quan  và  cho  doanh  nghiệp  đóng  bảo  lãnh. Khi  doanh  nghiệp  cung  cấp  thêm  các  giấy  tờ  phục  vụ  cho  việc  xác  định  chính  xác thuế  thì  doanh  nghiệp  có  thể  quay  lại  nộp  giấy  tờ  và  tiền  thuế  cần  đóng,  khi  đó hải quan sẽ hoàn trả lại số tiền bảo lãnh đã đóng.

Trong  Hiệp  định  CPTPP  quy  định  các  khoản  bảo  lãnh  không  lớn  hơn  khoản  yêu cầu,  phải  được  trả  lại  sớm  nhất  ngay  khi  xác  minh  được  số  thuế  chính  xác  doanh nghiệp  phải  đóng  và  doanh  nghiệp  có  thể  nộp  bảo  lãnh  bằng  các  công  cụ  tài chính  phi  tiền  mặt  và  các  công  cụ  tài  chính  sử  dụng  cho  nhiều  lần  xuất  nhập khẩu cùng một mặt hàng.

  • CPTPP và TBT, SPS

Quy định về  TBT  trong CPTPP có khác gì so với trong  WTO

Trong CPTPP, bên cạnh việc yêu cầu các tiêu chuẩn kỹ thuật  mà  các  nước ban hành cần phải tuân thủ theo  các nguyên tắc của WTO  về vấn  đề  này, CPTPP còn bổ sung thêm các yêu cầu về tính minh bạch, về quy trình đánh giá sự phù hợp, và tiêu chuẩn kỹ thuật  với một số loại  hàng hoá cụ thể để tránh các biện pháp TBT mà các nước ban hành ra gây cản trở đến tự do hoá thương mại. Cụ thể:

Yêu  cầu  về  minh  bạch:  Thời  gian  lấy  ý  kiến  tối  thiểu  từ  ngày  chuyển  dự  thảo  về  quy định  mới  ban  hành  về  quy  chuẩn  kỹ  thuật  và  quy  trình  đánh  giá  sự  phù  hợp  là  60 ngày,  khuyến  khích  gia  hạn  thời  gian  tối  thiểu  hơn  60  ngày.  Thời  gian  ban  hành và  thời  gian  có  hiệu  lực  của  quy  chuẩn  kỹ  thuật  và  quy  trình  đánh  giá  sự  phù  hợp nhiều hơn 6 tháng.

Quy trình  đánh  giá  sự phù  hợp: Không được yêu cầu các tổ  chức đánh giá sự phù hợp phải đặt trụ sở hay văn phòng đại diện  trên lãnh thổ nước  mình.  Không  phân biệt  đối  xử  giữa  tổ  chức  đánh  giá  sự  phù  hợp  đặt  trụ  sở  ở  nước  mình  và  nước ngoài.

Tiêu chuẩn  kỹ  thuật  với  một  số  hàng  hoá  cụ  thể:  CPTPP  có  phụ  lục về nguyên  tắc khi  ban  hành  tiêu  chuẩn kỹ thuật với  6  nhóm hàng hoá cụ thể, bao  gồm:  rượu vang  và  đồ uống chưng  cất, các sản  phẩm  công  nghệ  thông tin, dược  phẩm, thiết bị y tế, mỹ  phẩm, thực phẩm đóng  gói  và  phụ  gia  thực  phẩm. Sở dĩ các  nhóm  mặt hàng  này  có  những  nguyên  tắc  cụ thể  khi  ban  hành  tiêu chuẩn kỹ thuật  bởi một số nước  tham  gia  Hiệp  định  CPTPP  đều có thế  mạnh  về  các  mặt  hàng  này.  Họ  lo sợ  một  số  nước  khác  cạnh  tranh  bằng  cách  ban  hành  các  tiêu  chuẩn  kỹ  thuật  để hạn chế việc thương mại các sản phẩm họ có thế mạnh.

Quy định về SPS trong CPTPP có khác gì so với trong WTO

Về cơ bản  các quy  định  trong chương 7 về các biện pháp vệ  sinh dịch tễ, an  toàn thực  phẩm  SPS  trong  CPTPP giống với các  quy định trong Hiệp  định  SPS  của WTO. Tuy nhiên, các  quy  định  về  SPS trong  CPTPP  khác biệt  hơn ở phần mở rộng hơn các  nghĩa vụ về  hợp  tác và  tham vấn  trong  các  vấn  đề  liên  quan  đến SPS, quy trình  phân  tích  khoa  học  và  rủi  ro  trước  khi  ban  hành các biện pháp  SPS,  xác minh  quy  trình chứng nhận  SPS,  kiểm tra chuyên ngành  SPS  và  các  biện  pháp SPS khẩn cấp. Cụ thể:

Hợp  tác  và  tham  vấn:  Bên  có  quan  ngại  cố  gắng  tiến  hành  tham  vấn  theo  cơ  chế  và thủ  tục  hành  chính  bên  kia  đang  áp  dụng  hoặc  Hợp  tác  tham  vấn  kỹ  thuật  (CTC) nếu  phù  hợp.  Trong  vòng  30  ngày  kể  từ  ngày  chấp  thuận  thảo  luận,  hai  bên  gặp nhau  để  giải  quyết.  Trong  vòng  180  kể  từ  ngày  nhận  được  yêu  cầu,  vấn  đề  phải được giải quyết.

Quy  trình  phân  tích  khoa  học  và  rủi  ro  trước  khi  ban  hành  các  biện  pháp  SPS.  Các biện  pháp  SPS  phải  dựa  trên  các  cơ  sở  khoa  học  khách  quan  hoặc  tuân  thủ  hướng dẫn  và  khuyến  nghị  của  các  tổ  chức  quốc  tế  được  WTO  công  nhận  (CODEX,  OIE và  IPPC),  các  bên  có  cơ  hội  góp  ý  cho  quy  trình  đánh  giá  rủi  ro  được  gửi  tới  bởi nước  áp  dụng  biện  pháp  SPS,  đồng  thời  các  rủi  ro  phải  được  đánh  giá  phù  hợp với  hoàn  cảnh  rủi  ro  của  vấn  đề  và  có  tính  đến  các  cơ  sở  số  liệu  khoa  học  hiện  có. Trong  trường  hợp  đánh  giá  rủi  ro  đưa  ra  kết  quả  thông  qua  việc  áp  dụng  một  biện pháp SPS thì biện pháp đó chỉ được áp dụng trong một khoảng thời gian hợp lý.

Xác  minh  quy  trình  chứng  nhận  SPS:  nước  nhập  khẩu  được  quyền  xác  minh  lại  quy trình  chứng  nhận  SPS  của  các  cơ  quan  chứng  nhận  SPS  của  nước  xuất  khẩu  bằng cả  văn  bản  và  thực  địa  trước  khi  quyết  định  chấp  thuận  chứng  nhận  SPS.  Khi thanh  tra,  phải  dựa  trên  hệ  thống  và  thiết  lập  để  kiểm  tra  hiệu  quả  trong  quản lý  của  cơ  quan  có  thẩm  quyền.  Trước  khi  thanh  tra,  cả  hai  bên  cùng  thảo  luận  về cách  thức  và  quyết  định  mục  tiêu  và  phạm  vi  của  việc  thanh  tra;  các  tiêu  chuẩn hoặc  yêu  cầu  kháng  nghị  mà  Bên  xuất  khẩu  sẽ  được  đánh  giá;  và  trình  tự  và  quy trình  khi  tiến  hành  thanh  tra.  Đồng  thời,  bên  thanh  tra  phải  cho  bên  bị  thanh  tra cơ hội góp ý kết quả thanh tra trước khi có kết luận chính thức.

Kiểm  tra  chuyên  ngành  SPS  khi  nhập  khẩu:  các  kiểm  tra  phải  dựa  trên  các  rủi  ro liên  quan  đến  nhập  khẩu  và  phải  được  tiến  hành  sớm  để  không  gián  đoạn  thương mại.  Khi  các  nước  khác  yêu  cầu,  một  nước  tiến  hành  kiểm  tra  cần  cung  cấp  đầy đủ  các  thông  tin  về  quy  trình,  căn  cứ,  tần  suất  kiểm  tra  cho  các  nước  khác.  Việc kiểm  tra  này  phải  được  thực  hiện  tại  các  cơ  sở  hợp  pháp  đáp  ứng  tiêu  chuẩn  quốc tế.  Kết  quả  kiểm  tra  cần  được  thông  báo  trong  7  ngày  nếu  áp  dụng  biện  pháp  cấm hoặc hạn chế nhập khẩu, cùng với đó là lý do áp dụng.

Áp  dụng  biện  pháp  SPS  khẩn  cấp:  Trong  trường  hợp  sử  dụng  các  biện  pháp  SPS khẩn  cấp  để  bảo  vệ  sức  khoẻ,  tính  mạng  của  người,  động  thực  vật  thì  phải  thông báo  cho  các  nước  khác  và  sau  6  tháng  phải  rà  soát  đánh  giá  lại  việc  áp  dụng  có còn cần thiết hay không.

  • CPTPP và Đầu tư

Thế nào là “khoản đầu tư được bảo đảm” bởi Hiệp định này?

Theo Hiệp định CPTPP, các “khoản đầu tư được bảo đảm” bởi  Hiệp định này là “khoản đầu tư” của một nước CPTPP vào lãnh thổ một nước CPTPP khác và đã tồn tại kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực  hoặc được thực hiện,  mua lại hay mở rộng sau đó.

Trong  khi đó, “khoản đầu tư” được định nghĩa là mọi tài sản do nhà đầu tư sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp với các đặc điểm như  có cam kết về vốn đầu tư hoặc các nguồn lực khác, có kỳ vọng về lợi  nhuận, hoặc gánh chịu rủi ro.Vì vậy, “khoản đầu tư được bảo đảm  theo Hiệp định này” là mọi tài sản mà nhà đầu tư của một nước  CPTPP  khác sở  hữu hoặc kiểm  soát, tồn tại trên lãnh thổ của nước CPTPP khác  kể  từ ngày Hiệp định có hiệu lực hoặc được thành lập, mua lại, hay mở rộng sau đó.

Do  vậy,  đối  với  các  nước  CPTPP  mà  Hiệp  định  đã  có  hiệu  lực,  bất  cứ  tài  sản  nào của  nhà  đầu  tư  của  nước  CPTPP  khác  mà  họ  sở  hữu  hoặc  kiểm  soát  trực  tiếp  với các  đặc  điểm  đáp  ứng  được  yêu  cầu  của  Hiệp  định  đều  được  bảo  vệ.  Ngoài  ra,  các tài  sản  này  có  thể  bao  gồm  các  khoản  đầu  tư  được  thành  lập  mới,  mua  lại  hay mở rộng.

Đầu  tư  của  một  nhà  đầu  tư  được  bảo  đảm  như  thế  nào  trong  khuôn khổ CPTPP?

Để  bảo  vệ  quyền  lợi  của nhà  đầu  tư  nước  ngoài,  chương  Đầu tư cho  phép  nhà đầu tư nước ngoài  được  tiến  hành  khởi  kiện ra  cơ quan  trọng  tài  quốc tế,  theo các quy định và quy  trình  được mô  tả  rõ  ràng, nếu thấy quyền lợi của  mình  bị  chính  quyền  nước  sở  tại xâm phạm. Ví  dụ, nhà đầu tư nước  ngoài có quyền khởi  kiện  khi quyền  lợi  bị  xâm  phạm như trưng  thu, tước quyền sở  hữu,  tiêu  chuẩn  đối  xử  tối  thiểu… ngoại trừ trường  hợp có tranh  chấp  phát  sinh  từ  việc  thực  hiện các  cam  kết  hay  nghĩa  vụ  của  hợp  đồng  đầu tư  và  chấp  thuận đầu tư. Thậm chí, trong  trường  hợp  nước  nhận  đầu  tư  bị  thua  kiện  mà không tuân  thủ  phán  quyết  của  trọng  tài,  Hiệp  định  CPTPP  cũng đề ra cơ chế  buộc  nhà nước  phải  thực  thi  phán  quyết  thông  qua việc nhà  nước  nơi  nhà  đầu  tư  mang  quốc  tịch yêu cầu thành lập ban hội thẩm để xem xét việc không tuân thủ phán quyết cuối cùng.

Ngoài  ra, Hiệp  định cũng quy định rõ ràng về các  điều kiện  của tước quyền sở hữu và bồi thường. Theo đó, tước quyền sở hữu chỉ có thể xảy ra vì các mục đích sau: (i) vì mục đích công cộng; (ii)  trên cơ sở không phân biệt đối xử; (iii) với điều kiện thực hiện bồi thường nhanh chóng, thỏa đáng và  hiệu quả theo quy định tại các hoản 2, 3 và 4; và (iv) phù hợp với thủ tục pháp luật.

CPTPP  mang  đến  cơ  hội  gì  cho  các  doanh  nghiệp  của Việt  Nam  kinh doanh các dịch vụ như du lịch, tài chính, viễn thông, phân phối v.v…?

Thông  qua Hiệp định CPTPP, các  nước  dành  cho Việt  Nam  mức  mở cửa  thị  trường dịch  vụ  đầu tư  tốt  hơn  mức  họ đã cam  kết các FTA song  phương  đã  ký  với Việt Nam và  với  nhiều  đối  tác khác. Do vậy, cơ hội  để các doanh  nghiệp Việt Nam đầu tư,  cung cấp dịch vụ vào thị  trường các  nước  CPTPP  được  cải  thiện  đáng kể. Các doanh  nghiệp  hiện  đang  triển  khai các dự đầu tư ra  nước ngoài như  Viettel,  PVN sẽ  được hưởng mức đãi ngộ tốt  hơn,  giúp nâng cao hiệu quả và lợi nhuận kinh doanh.

Các cam kết về mở cửa  thị  trường dịch  vụ  đầu  tư  của  Việt  Nam  trong  CPTPP  cũng tạo  cơ  hội  cho  nhà  đầu  tư,  cung  cấp  dịch  vụ  nước  ngoài  thâm  nhập  vào  thị  trường Việt  Nam.  Người  dân,  do  vậy,  sẽ  có  thêm  các  lựa  chọn  về  sản  phẩm  dịch  vụ  tiêu dùng  chất  lượng  hơn,  giá  thành  hợp  lý  hơn.  Thị  trường  trở  nên  cạnh  tranh  hơn cũng  gián  tiếp  thúc  đẩy  việc  cải  cách,  đổi  mới  cơ  cấu,  cách  thức  hoạt  động  kinh doanh  của  các  doanh  nghiệp  Việt  Nam  nhằm  nâng  cao  khả  năng  cạnh  tranh  trên sân  nhà.  Về  lâu  dài,  đây  sẽ  là  cơ  hội  để  Việt  Nam  nâng  cao  sức  cạnh  tranh  của nền kinh tế.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *