- CPTPP và những lợi ích đối với Việt Nam
Lợi ích về xuất khẩu
Việc các nước, trong đó có các thị trường lớn như Nhật Bản và Ca-na-đa giảm thuế nhập khẩu về 0% cho hàng hóa của ta sẽ tạo ra những tác động tích cực trong việc thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu. Theo đó, doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường các nước thành viên Hiệp định CPTPP sẽ được hưởng cam kết cắt giảm thuế quan rất ưu đãi.
Về cơ bản, các mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của ta như nông thủy sản, điện, điện tử đều được xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Với mức độ cam kết như vậy, theo nghiên cứu chính thức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, xuất khẩu của Việt Nam có thể sẽ tăng thêm 4,04% đến năm 2035.
Việc có quan hệ FTA với các nước CPTPP sẽ giúp Việt Nam có cơ hội cơ cấu lại thị trường xuất nhập khẩu theo hướng cân bằng hơn. Theo một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới được công bố vào tháng 3 năm 2018, dự báo đến năm 2030, xuất khẩu của Việt Nam sang các nước CPTPP sẽ tăng từ 54 tỷ đô-la Mỹ lên 80 tỷ đô-la Mỹ, chiếm 25% tổng lượng xuất khẩu.
Lợi ích về việc tham gia chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu
Các nước CPTPP chiếm 13,5% GDP toàn cầu với tổng kim ngạch thương mại hơn 10.000 tỷ USD, lại bao gồm các thị trường lớn như Nhật Bản, Ca-na-đa, Ốt-xtrây-lia sẽ mở ra nhiều cơ hội khi chuỗi cung ứng mới hình thành. Tham gia CPTPP sẽ giúp xu hướng này phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn, là điều kiện quan trọng để nâng tầm trình độ phát triển của nền kinh tế, tăng năng suất lao động, giảm dần việc gia công lắp ráp, tham gia vào công đoạn sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn, từ đó bước sang giai đoạn phát triển các ngành điện tử, công nghệ cao, sản phẩm nông nghiệp xanh… Đây là cơ hội lớn để nâng tầm nền kinh tế Việt Nam trong 5 – 10 năm tới.
Lợi ích đối với các ngành
Các ngành dự kiến có mức tăng trưởng lớn sẽ là thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, dệt may, một số phân ngành sản xuất và dịch vụ. Trong đó, mức tăng trưởng lớn nhất là ở các ngành thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, dệt may, hóa chất, sản phẩm nhựa và đồ da, trang thiết bị vận tải, máy móc và các trang thiết bị khác. Theo nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với các ngành công nghiệp nhẹ và thâm dụng lao động khác, CPTPP có thể tạo ra mức tăng trưởng bình quân từ 4% – 5% và mức tăng xuất khẩu có thể đạt từ 8,7% – 9,6%.
Lợi ích về cải cách thể chế
Cũng như tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tham gia CPTPP, một FTA thế hệ mới, sẽ là cơ hội để ta tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp luật kinh tế, trong đó có thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một trong ba đột phá chiến lược mà Đảng ta đã xác định; hỗ trợ cho tiến trình đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế của ta, đồng thời giúp ta có thêm cơ hội để hoàn thiện môi trường kinh doanh theo hướng thông thoáng, minh bạch và dễ dự đoán hơn, tiệm cận các chuẩn mực quốc tế tiên tiến, từ đó thúc đẩy cả đầu tư trong nước lẫn đầu tư nước ngoài.
Lợi ích về việc làm, thu nhập
Tham gia CPTPP sẽ tạo ra các cơ hội giúp nâng cao tốc độ tăng trưởng. Vì vậy, về mặt xã hội, hệ quả là sẽ tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao thu nhập và góp phần xoá đói giảm nghèo. Theo kết quả nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, CPTPP có thể giúp tổng số việc làm tăng bình quân mỗi năm khoảng 20.000 – 26.000 lao động. Đối với lợi ích về xóa đói giảm nghèo, theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, đến năm 2030, CPTPP dự kiến sẽ giúp giảm 0,6 triệu người nghèo ở mức chuẩn nghèo 5,5 đô-la Mỹ/ngày. Tất cả các nhóm thu nhập dự kiến sẽ được hưởng lợi.
Tăng trưởng kinh tế cũng giúp ta có thêm nguồn lực để cải thiện chất lượng nguồn nhân lực và chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Do các nền kinh tế của các nước thành viên CPTPP đều phát triển ở trình độ cao hơn Việt Nam và mang tính bổ sung đối với nền kinh tế Việt Nam, nhập khẩu từ các nước CPTPP chưa có FTA với ta phần lớn là không cạnh tranh trực tiếp, nên với một lộ trình giảm thuế hợp lý, kết hợp với hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, ta có thể xử lý được các vấn đề xã hội nảy sinh do tham gia CPTPP. Đặc biệt, do Hiệp định CPTPP bao gồm cả các cam kết về bảo vệ môi trường nên tiến trình mở cửa, tự do hóa thương mại và thu hút đầu tư sẽ được thực hiện theo cách thân thiện với môi trường hơn, giúp kinh tế Việt Nam tăng trưởng bền vững hơn.
- Thách thức của CPTPP
Thách thức về kinh tế
Xét theo mặt hàng, một số chủng loại nông sản mà một số nước CPTPP có thế mạnh như thịt lợn, thịt gà là những mặt hàng Việt Nam đã sản xuất được nhưng sức cạnh tranh còn yếu. Tuy nhiên, do Hoa Kỳ đã rút khỏi Hiệp định nên sức ép cạnh tranh giảm đi đáng kể. Hơn nữa, với hai mặt hàng này, Việt Nam đã bảo lưu được lộ trình thực hiện tương đối dài (với một số chủng loại thịt gà là trên 10 năm). Đây là lộ trình dài hơn nhiều so với cam kết mở cửa thị trường của Việt Nam trong ASEAN vốn cũng rất cạnh tranh trong việc sản xuất một số loại thịt.
Một số sản phẩm công nghiệp mà một số nước CPTPP có thế mạnh cũng có thể gây khó khăn cho sản xuất của ta, ví dụ như giấy, thép, ô tô. Tuy nhiên, có cơ sở để cho rằng sức ép cạnh tranh sẽ không lớn vì hiện tại và trong tương lai 10 – 15 năm nữa sản phẩm của ta vẫn chủ yếu hướng đến phân khúc thị trường trung bình trong khi sản phẩm của các nước CPTPP thường hướng đến phân khúc thị trường cao cấp.
Để vượt qua thách thức này, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp – chăn nuôi, Chính phủ trong thời qua đã ban hành 3 Nghị định theo hướng cơ cấu lại ngành nông nghiệp, tổ chức lại sản xuất, thí điểm một số mô hình sản xuất tiên tiến, thúc đẩy ứng dụng khoa học – công nghệ, hỗ trợ doanh nghiệp và nông dân trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nông nghiệp v.v. để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp, từ đó đủ sức cạnh tranh trên sân nhà và vươn ra thị trường thế giới. Hiện nay, nhiều tập đoàn lớn của Việt Nam đã quan tâm đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp với các công nghệ sản xuất và quản lý tiên tiến trên thế giới. Với công nghệ và phương thức quản lý hiện đại, có cơ sở để tin rằng các sản phẩm do các tập đoàn này làm ra sẽ có khả năng cạnh tranh trên sân nhà. Theo kết quả đàm phán, việc mở cửa thị trường trong một số lĩnh vực nông nghiệp cũng sẽ được thực hiện theo lộ trình phù hợp để hỗ trợ cho tiến trình cơ cấu lại.
Với các sản phẩm khác, giải pháp chủ yếu cũng là kéo dãn lộ trình giảm thuế để có thời gian tái cơ cấu sản xuất trong nước, thúc đẩy đầu tư quy mô lớn và áp dụng công nghệ cao để nâng dần sức cạnh tranh. Theo hướng đó, lộ trình cần được sử dụng một cách chủ động, hiệu quả, tránh tình trạng ỷ lại vào lộ trình dẫn đến chậm đổi mới và từ đó là bị động, lúng túng khi thách thức đến. Đặc biệt, cần đổi mới và tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến để mọi doanh nghiệp đều nhận thức được cơ hội và thách thức của CPTPP nói riêng cũng như tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia các FTA thế hệ mới nói chung.
Thách thức về hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, thể chế
Để thực thi cam kết trong CPTPP, sẽ phải điều chỉnh, sửa đổi một số quy định pháp luật về thương mại, hải quan, sở hữu trí tuệ, lao động, công đoàn v.v. Sức ép phải thay đổi hệ thống pháp luật để tuân thủ những chuẩn mực mới của Hiệp định là có nhưng sẽ vượt qua được vì 3 lý do. Một là, những cam kết khó nhất, đòi hỏi nguồn lực thực thi lớn (ví dụ như trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ), đã được 11 nước “tạm hoãn” sau khi Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định TPP. Hai là, nhiều cam kết tuy mới nhưng lại phù hợp hoàn toàn với đường lối, chủ trương của Đảng cũng như pháp luật của Nhà nước (ví dụ như trong lĩnh vực mua sắm của Chính phủ, bảo vệ môi trường, doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp nhỏ và vừa…) nên sức ép thay đổi hệ thống pháp luật không lớn.
Ngoài ra, như kinh nghiệm gia nhập WTO đã chỉ ra, với sự chuẩn bị nghiêm túc và nỗ lực cao, ta có thể thực hiện thành công khối lượng công việc này, nhất là khi ta được quyền thực hiện theo lộ trình. Cụ thể, ngay sau khi Hiệp định được ký kết, Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành phối hợp với Bộ Tư pháp khẩn trương rà soát các quy định hiện hành trong các văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi phụ trách để từ đó đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung hoặc hình thức áp dụng phù hợp nhằm đảm bảo phù hợp với các yêu cầu của Hiệp định CPTPP. Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Kế hoạch của Chính phủ về thực thi Hiệp định CPTPP, trong đó phân công nhiệm vụ cho từng Bộ, ngành, cơ quan có liên quan triển khai các công việc cụ thể để bảo đảm việc thực thi đầy đủ và có hiệu quả Hiệp định này.
Thách thức về xã hội
Cạnh tranh tăng lên khi tham gia CPTPP có thể làm cho một số doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp vẫn dựa vào sự bao cấp của Nhà nước, các doanh nghiệp có công nghệ sản xuất và kinh doanh lạc hậu lâm vào tình trạng khó khăn (thậm chí phá sản), kéo theo đó là khả năng thất nghiệp trong một bộ phận lao động sẽ xảy ra. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, do phần lớn các nền kinh tế trong CPTPP không cạnh tranh trực tiếp với ta, nên ngoại trừ một số ít sản phẩm nông nghiệp, dự kiến tác động này là có tính cục bộ, quy mô không đáng kể và chỉ mang tính ngắn hạn.
Đồng thời, với cơ hội mới có được, ta sẽ có điều kiện để tạo ra nhiều việc làm mới, giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang các ngành ta thực sự có lợi thế cạnh tranh. Ngoài ra, với thời gian, thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài tăng lên, có lựa chọn hơn, cơ cấu sản xuất sẽ được điều chỉnh và nhiều việc làm mới sẽ được tạo ra.
Do vậy, để hỗ trợ các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, có thể tận dụng được tối đa những cơ hội cũng như giản thiểu những thách thức gặp phải trong quá trình thực thi Hiệp định, Chính phủ đã và đang chỉ đạo các Bộ, ngành tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn nhằm nâng cao nhận thức và sự hiểu biết của doanh nghiệp về các quy định, cam kết của Hiệp định. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng chỉ đạo các Bộ, ngành chủ động nghiên cứu, vận dụng các biện pháp phi thuế như các hàng rào kỹ thuật, các biện pháp phòng vệ thương mại được phép áp dụng theo các cam kết quốc tế của Việt Nam nói chung và Hiệp định CPTPP nói riêng để hỗ trợ cũng như bảo vệ lợi ích chính đáng của các ngành trong nước trước sự cạnh tranh của hàng nước ngoài. Ngoài ra, Chính phủ cũng sẽ có các biện pháp trợ giúp doanh nghiệp để chủ động xử lý kịp thời các tác động tiêu cực có thể xảy ra trong đó có việc tổ chức đào tạo lại đội ngũ lao động.
- Một số vấn đề chung
CPTPP khác gì với các FTA khác mà Việt Nam đã ký kết?
CPTPP khác với các FTA mà Việt Nam ký kết ở những điểm như sau:
– Có phạm vi và mức độ cam kết rộng hơn và sâu hơn. Ví dụ, diện cắt giảm thuế quan trong các FTA khác mà Việt Nam ký kết chỉ đạt từ 78% (FTA giữa ASEAN và Ấn Độ) đến 98% (cam kết trong ASEAN) trong khi diện cắt giảm thuế của Việt Nam trong CPTPP là gần 100%. Ngoài ra, mức độ cam kết về mở cửa lĩnh vực dịch vụ và đầu tư trong CPTPP cao hơn hẳn so với các FTA khác.
– Xử lý các vấn đề thương mại phi truyền thống như lao động, môi trường, mua sắm chính phủ, doanh nghiệp Nhà nước. Các FTA mà ta đã ký kết (ngoại trừ FTA với Liên minh châu Âu) đều không xử lý những vấn đề này.
Doanh nghiệp muốn tìm hiểu về Hiệp định CPTPP thì cần phải làm như thế nào?
Doanh nghiệp muốn tìm hiểu về Hiệp định CPTPP có thể thông qua các hình thức như sau:
– Cổng thông tin chính thức về Hiệp định CPTPP của Bộ Công Thương
Để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu thông tin của người dân và doanh nghiệp trên cả nước về Hiệp định CPTPP một cách thuận lợi và hiệu quả hơn, Bộ Công Thương đã nâng cấp toàn bộ cấu trúc và nội dung của chuyên trang thông tin điện tử về Hiệp định CPTPP tại địa chỉ: http://cptpp.moit.gov.vn/.
Hiện nay, khối lượng và nội dung các thông tin được cung cấp trên chuyên trang điện tử này về cơ bản là tương đương với thông tin được cung cấp trên trang thông tin điện tử về CPTPP của các nước, với 8 nội dung chính như sau:
– Tổng quan về CPTPP:
Phần này giới thiệu các thông tin chung về Hiệp định CPTPP như quá trình hình thành, nội dung chính, sự khác nhau giữa CPTPP và TPP, cơ hội và thách thức của Hiệp định để người đọc nắm được tổng quan về Hiệp định này.
– Cam kết chính của CPTPP trong các lĩnh vực chủ chốt: Phần này giải thích những cam kết hoặc nội dung chính mà Việt Nam đã cam kết trong Hiệp định CPTPP trong các lĩnh vực chủ chốt bao gồm: Cắt giảm thuế nhập khẩu; Dệt may; Quy tắc xuất xứ; Dịch vụ và đầu tư; Lao động; Mua sắm Chính phủ; Môi trường; Doanh nghiệp nhà nước; Sở hữu trí tuệ; Thương mại điện tử; Hợp tác và nâng cao năng lực; Phát triển; Doanh nghiệp vừa và nhỏ; Hội tụ phương pháp hoạch định chính sách. Những giải thích này sẽ là thông tin tham khảo hữu ích cho doanh nghiệp để nắm rõ hơn về các cam kết của Hiệp định.
– Các thông tin hữu ích cho nhà xuất khẩu: Phần này giới thiệu về quan hệ thương mại song phương giữa Việt Nam với từng đối tác CTPP, liệt kê cam kết của các nước đối tác mà Hiệp định đã chính thức có hiệu lực kể từ ngày 30 tháng 12 năm 2019 dành cho những hàng hóa mà Việt Nam có lợi thế xuất khẩu như nông thủy sản, giày dép, dệt may, va-li, túi xách, đồ điện, điện tử, v.v., cũng như những cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ – đầu tư cho các nhà cung cấp dịch vụ của Việt Nam.
– Toàn bộ văn kiện CPTPP: bằng tiếng Anh và bản dịch tiếng Việt;
– Cập nhật kết quả và văn kiện có liên quan tại phiên họp của Hội đồng và các Ủy ban chuyên môn: Phần này cập nhật toàn bộ kết quả phiên họp Hội đồng CPTPP lần thứ nhất đã tổ chức vào ngày 19 tháng 01 năm 2019 tại Tô-ki-ô, Nhật Bản.
– Kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTPP của Chính phủ, các Bộ, ngành và các địa phương: Phần này cập nhật Kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTPP của Thủ tướng Chính phủ, của các Bộ ngành, cơ quan cấp trung ương và cơ quan cấp địa phương.
– Các văn bản quy phạm pháp luật được sửa đổi hoặc ban hành mới để thực hiện Hiệp định CPTPP: Phần này cập nhật các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành, hoặc dự thảo đang được lấy ý kiến.
– Thông qua các hội thảo, hội nghị, khóa tập huấn Trong thời gian qua, nhiều hội thảo, hội nghị, khóa tập huấn về Hiệp định CPTPP đã được tổ chức trên toàn quốc. Các doanh nghiệp có thể tham dự và trực tiếp trao đổi với các diễn giả hoặc ban tổ chức để có thêm thông tin về lĩnh vực mình quan tâm trong Hiệp định CPTPP.
– Liên hệ trực tiếp với cơ quan đầu mối về Hiệp định CPTPP của Bộ Công Thương Theo quyết định của Chính phủ, Bộ Công Thương được giao làm cơ quan đầu mối về Hiệp định CPTPP và Bộ Công Thương đã giao Vụ chính sách thương mại đa biên là đơn vị đầu mối của Bộ về Hiệp định này. Các doanh nghiệp có thể trực tiếp liên hệ với Vụ chính sách thương mại đa biên theo số điện thoại (024) 22205420 hoặc (024)22202245 hoặc qua địa chỉ email là wto_mtpd@moit.gov.vn.
Không chỉ tạo khó khăn cho các DN trong 1 số ngành, CPTPP còn gây áp lực cải cách thể chế – nhất là khi môi trường kinh doanh của VN đang xếp cuối bảng trong 11 nước thành viên CPTPP
Việc tham gia CPTPP- một FTA thế hệ mới, toàn diện và chất lượng cao, sẽ là động lực để Việt Nam tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý, thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh theo hướng thông thoáng, minh bạch, từ đó giúp tăng cường thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Cụ thể là, các FTA này đặt ra yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước theo hướng công khai, minh bạch và dễ dự đoán; các yêu cầu và tiêu chuẩn rất cao về quản trị minh bạch và hành xử khách quan của bộ máy Nhà nước theo hướng tinh gọn và thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính. Ngoài ra, cam kết mở cửa thị trường dịch vụ – đầu tư theo hướng chọn – bỏ; cam kết mở cửa thị trường mua sắm của Chính phủ; doanh nghiệp nhà nước, nguyên tắc “chỉ tiến không lùi” khi đưa ra các các biện pháp mở cửa thị trường dịch vụ – đầu tư, yêu cầu xóa bỏ các điều kiện đầu tư gây “méo mó” thương mại, các quy định mang tính tiêu chuẩn cao về bảo hộ sở hữu trí tuệ, v.v.. sẽ đảm bảo sự bảo hộ cao hơn đối với các thành quả đầu tư cho của các doanh nghiệp nước ngoài. Đây là những yếu tố quan trọng nhằm tạo nên một môi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh, góp phần thu hút sự đầu tư ổn định lâu dài của các doanh nghiệp trong khu vực FTA thế hệ mới nói riêng và doanh nghiệp trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương nói chung. Với những tiền đề và điều kiện đó, có cơ sở để tin tưởng rằng Việt Nam sẽ trở thành một trong những điểm thu hút đầu tư quan trọng tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương với chỉ số xếp hạng sẽ không ngừng được cải thiện.
Các yêu cầu thực hiện của CPTPP đối với Việt Nam có những khắt khe gì?
– Để thực thi cam kết trong CPTPP, Việt Nam sẽ phải điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới một số văn bản quy phạm pháp luật về thương mại, hải quan, sở hữu trí tuệ, lao động, công đoàn, v.v. để phù hợp với cam kết của Hiệp định. Theo kết quả rà soát 265 văn bản quy phạm pháp luật ở cấp Trung ương, tổng số văn bản quy phạm pháp luật được kiến nghị sửa đổi, bổ sung là 12 văn bản bao gồm 08 luật, 03 nghị định và 01 quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Trong đó, 08 luật bao gồm Bộ luật Lao động, Luật Sở hữu trí tuệ, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật An toàn thực phẩm, Luật Phòng, chống tham nhũng và Luật Tố cáo (đã được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 5, QH khóa XIV vừa qua).
– Ngoài ra, Hiệp định CPTPP đặt ra yêu cầu thực hiện khắt khe về cơ chế giải quyết tranh chấp có tính ràng buộc chặt chẽ và chặt chẽ.
+ Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Chính phủ với Chính phủ (SSDS) thiết lập một quy trình công bằng, minh bạch, kịp thời và có hiệu quả để giải quyết các tranh chấp giữa các nước CPTPP nhưng vẫn đồng thời khuyến khích giải quyết các khiếu nại thông qua hợp tác và tham vấn khi có thể với các nghĩa vụ như: bảo đảm quyền của công chúng trong việc theo dõi quá trình tố tụng thông qua việc tuân thủ các thủ tục; cho phép việc sử dụng biện pháp trả đũa thương mại (dưới hình thức tạm ngừng các ưu đãi hoặc thanh toán một khoản tiền ấn định) nếu một bên không thực thi các phán quyết của hội đồng trọng tài, v.v..
+ Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và Nhà nước (ISDS) trong CPTPP cho phép nhà đầu tư nước ngoài được tiến hành khởi kiện ra cơ quan trọng tài quốc tế trong một số trường hợp khi quyền lợi của nhà đầu tư bị chính quyền nước sở tại xâm phạm trái với các tiêu chuẩn được Hiệp định đặt ra (ví dụ trưng thu, tước quyền sở hữu, tiêu chuẩn đối xử tối thiểu, v.v.), ngoại trừ trường hợp có tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện các cam kết hay nghĩa vụ của hợp đồng đầu tư và chấp thuận đầu tư. Tuy nhiên, việc khởi kiện có thể được thực hiện tại cơ quan trọng tài quốc tế và phải tuân thủ các quy định và quy trình được mô tả rõ ràng với các nghĩa vụ như minh bạch hoá thủ tục trọng tài, sự tham gia của bên thứ ba, sự tham gia của bên không liên quan tới vụ kiện, v.v..
CPTPP ảnh hưởng như thế nào đến ngành chăn nuôi
Một số nước CPTPP (như Hoa Kỳ, Ô-xtrây-lia, Niu Di-lân, Chi-lê) có thế mạnh về các sản phẩm chăn nuôi, trong đó nổi bật là thịt lợn và thịt gà. Trong khi đó, sức cạnh tranh của các mặt hàng này của Việt Nam vẫn còn yếu. Do vậy, Việt Nam có thể gặp một số khó khăn khi Hiệp định có hiệu lực. Tuy nhiên, lộ trình xóa bỏ thuế quan của các mặt hàng này tương đối dài (với một số chủng loại thịt gà là trên 10 năm) nên ngành chăn nuôi sẽ có thêm thời gian để thích nghi, cải tiến, tổ chức lại sản xuất, ứng dụng khoa học – công nghệ để sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam đủ sức đứng vững trên sân nhà.
- CPTPP và Thuế
Thời điểm bắt đầu áp dụng mức thuế suất mới theo lộ trình xóa bỏ thuế của các nước CPTPP được quy định như thế nào?
Thời điểm một nước CPTPP bắt đầu áp dụng mức thuế suất đầu tiên theo mức cam kết trong lộ trình xóa bỏ thuế quan của mình chính là thời điểm Hiệp định có hiệu lực đối với nước đó. Từ năm thứ hai sau khi Hiệp định có hiệu lực, thời điểm áp dụng mức thuế suất mới theo mức cam kết trong lộ trình xóa bỏ thuế quan là ngày 01 tháng 01 hàng năm. Tuy nhiên, riêng đối với Nhật Bản, thời điểm áp dụng mức thuế suất mới từ năm thứ hai trở đi là vào ngày 01 tháng 4 hàng năm.
Trong số 10 nước tham gia ký kết CPTPP với Việt Nam thì có 7 nước đã có quan hệ FTA với Việt Nam. Vậy trong trường hợp có sự khác nhau giữa mức thuế nhập khẩu của các nước trong FTA này và CPTPP thì doanh nghiệp có được lựa chọn mức thuế suất có lợi nhất không và điều kiện để được hương mức thuế suất đó là gì?
Để được hưởng mức thuế suất ưu đãi trong một Hiệp định FTA thì hàng hóa của doanh nghiệp phải đáp ứng được các quy định về quy tắc xuất xứ của Hiệp định đó. Do vậy, nếu có sự khác nhau về thuế suất trong các FTA thì doanh nghiệp được quyền lựa chọn mức thuế suất có lợi nhất với mình miễn là doanh nghiệp đáp ứng được quy tắc xuất xứ của FTA có mức thuế suất mà doanh nghiệp lựa chọn.
Với việc cắt giảm một loạt thuế theo cam kết, khi CPTPP có hiệu lực sẽ tác động thế nào tới nguồn thu ngân sách?
Việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết của Hiệp định CPTPP sẽ có tác động nhất định tới nguồn thu ngân sách nhưng không nhiều. Lý do là vì trong số các nước thành viên CPTPP chỉ còn 3 nước là Ca-na-đa, Mê-hi-cô và Pê-ru là chưa có FTA với Việt Nam nhưng kim ngạch thương mại song phương giữa Việt Nam và các nước này này hiện còn khá khiêm tốn. Ngoài ra, với việc môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, số lượng doanh nghiệp cũng như đầu tư nước ngoài gia tăng sẽ giúp nguồn thu ngân sách nhà nước được bổ sung thêm từ một số loại thuế khác như thuế thu nhập doanh nghiệp…
Từ ngày Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam giảm thuế nhập khẩu cho cá tra da trơn của Ca-na-đa từ 18% hiện nay xuống còn 0%, và tôm hùm Ca-nađa từ 35% xuống còn lại 15%. Vậy cuộc chơi CPTPP có lợi gì cho nông sản và hoạt động xuất khẩu nông sản Việt?
Một số ý kiến cho rằng Hiệp định CPTPP sẽ gây khó khăn cho hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh sức cạnh tranh của ta vẫn còn hạn chế. Tuy nhiên, nếu nhìn một cách tổng thể thì Hiệp định CPTPP vẫn là cơ hội để nông sản Việt Nam bứt phá. Điều này được thể hiện ở một số mặt sau:
Thứ nhất, hoạt động nông sản của Việt Nam hiện mới chỉ tập trung vào một số mặt hàng chính và một số bạn hàng lớn. Tham gia CPTPP sẽ giúp Việt Nam đa dạng hóa các mặt hàng nông sản xuất khẩu và mở rộng xuất khẩu sang các thị trường lớn, đặc biệt là những thị trường mà Việt Nam chưa có FTA như Ca-na-đa, Pê-ru, Mê-hi-cô. Ví dụ như mặt hàng gạo khi vào Ca-na-đa sẽ được xóa bỏ thuế quan hoàn toàn, trong khi đó 91% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của ta sẽ được xóa bỏ thuế quan tại thị trường Nhật Bản. Các mặt hàng chè, hạt điều cũng sẽ được xóa bỏ thuế quan ngay đối với các thị trường Pê-ru, Mê-hi-cô và Chi-lê v.v
Thứ hai, cơ hội mở rộng thương mại trong CPTPP còn đến từ hoạt động đầu tư xuyên quốc gia. Khi CPTPP có hiệu lực, dòng vốn đầu tư nước ngoài cho ngành nông nghiệp sẽ tăng lên, đặc biệt từ các nước không có lợi thế về nông nghiệp. Từ đó, nền nông nghiệp sẽ tiếp thu được khoa học công nghệ mới, giúp thay đổi phương thức sản xuất, từng bước trở nên hiện đại và hiệu quả hơn, nâng cao sức cạnh tranh. Về lâu dài, những ngành đang phụ thuộc vào nguyên liệu nước ngoài cũng sẽ có cơ hội đón nhận luồng đầu tư từ nước ngoài, từ đó giúp doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu.
Lộ trình thuế quan trong CPTPP được cho là một trong những điểm được trông chờ nhất. Chẳng hạn như ngay sau khi CPTPP có hiệu lực thì 66% mặt hàng thuế sẽ được đưa về 0%, 86,5% về 0% sau 3 năm. Người Việt kỳ vọng được mua những mặt hàng như ô tô giá rẻ có phải vậy không?
Trong CPTPP Việt Nam chỉ có 3 đối tác mới là Ca-na-đa, Mê-hi-cô và Pê-ru. Họ không xuất khẩu nhiều vào Việt Nam và lộ trình giảm thuế của Việt Nam trong CPTPP cũng ở mức vừa phải nên mức độ giảm giá hàng hóa nhờ hiệp định này sẽ rất khó nhận biết. Các nước như Nhật Bản, Ốt-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Chi-lê v.v. đều đã có FTA với Việt Nam nên CPTPP sẽ không đem lại giá trị gia tăng lớn cho họ. Nói đơn giản, giá hàng hóa nhập khẩu từ những nước này cũng sẽ không giảm nhiều nhờ CPTPP.
Với riêng ô tô, ngoài thuế nhập khẩu còn có thuế tiêu thụ đặc biệt và các loại phí. Nếu giảm thuế nhập khẩu nhưng lại tăng thuế tiêu thụ đặc biệt và các loại phí thì giá ô tô cũng sẽ không giảm như mong đợi. Đây là bài toán cân đối giữa cơ sở hạ tầng và số lượng phương tiện, không còn là bài toán bảo hộ nữa. Bên cạnh đó, cơ cấu chủ thể tham gia sản xuất và nhập khẩu ô tô cũng sẽ có tác động lớn tới giá ô tô. Nói thế để thấy thuế nhập khẩu đã, đang và sẽ không bao giờ là yếu tố duy nhất xác định giá ô tô.
- CPTPP và Quy tắc xuất xứ
Doanh nghiệp Việt Nam phải làm gì để giải quyết vướng mắc về quy tắc xuất xứ
Để được hưởng ưu đãi thuế quan từ các nước CPTPP, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam phải đáp ứng quy định về quy tắc xuất xứ và thủ tục chứng nhận xuất xứ như quy định tại Chương 3 – Quy tắc xuất xứ và thủ tục chứng nhận xuất xứ hàng hóa của Hiệp định CPTPP.
Trường hợp gặp vướng mắc liên quan đến các vấn đề về quy tắc xuất xứ, chứng nhận xuất xứ, doanh nghiệp cần:
– Nghiên cứu cụ thể các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực thi Chương Quy tắc xuất xứ của Hiệp định CPTPP. Cụ thể là Thông tư số 03/2019/TT-BCT ngày 22 tháng 01 năm 2019 và Thông tư số 06/2020/TT-BCT ngày 23 tháng 3 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Công Thương;
– Phối hợp với nhà xuất khẩu, nhà sản xuất, hoặc nhà nhập khẩu để tìm hiểu cụ thể vấn đề vướng mắc, cung cấp các chứng từ liên quan;
– Cung cấp các thông tin, chứng từ cần thiết theo yêu cầu của cơ quan Hải quan hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan để kiểm tra, xác thực xuất xứ của hàng hóa có liên quan;
– Trường hợp không thể giải quyết được vấn đề, doanh nghiệp có thể liên hệ (bằng văn bản, email hoặc qua điện thoại) với các cơ quan sau đây để được hướng dẫn, giải đáp:- Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương (về vấn đề chứng nhận xuất xứ liên quan đến hàng hóa xuất khẩu), địa chỉ: 54 Hai Bà Trưng, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội; điện thoại: (024) 2220.5444 – 2220.5361 – 2220.2468; email: xnk-xxhh@moit.gov. vn; hoặc- Cục Giám sát và Quản lý về hải quan, Tổng cục Hải quan (đối với chứng nhận xuất xứ liên quan đến hàng hóa nhập khẩu), địa chỉ: Lô E3 – Đường Dương Đình Nghệ, Phường Yên Hòa, Quận Cầu Giấy, Hà Nội; điện thoại: (024) 39440833.
Doanh nghiệp làm thế nào để biết hàng hóa của mình đạt tiêu chí xuất xứ hàng hóa theo CPTPP
Thông tư số 03/2019/TT-BCT ngày 22 tháng 01 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định quy tắc xuất xứ hàng hoá trong Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương và Thông tư số 06/2020/TT-BCT ngày 24 tháng 3 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Công Thương sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 03/2019/TT-BCT.
Hàng hoá được coi là có xuất xứ theo Hiệp định CPTPP khi đáp ứng các quy định tại Thông tư số 03/2019/TT-BCT và Thông tư số 06/2020/TT-BCT.
Để xác định hàng hoá xuất khẩu có xuất xứ theo Hiệp định CPTPP hay không, doanh nghiệp cần xác định chính xác mã số HS của hàng hoá xuất khẩu và các nguyên liệu (nếu có) tham gia vào quá trình sản xuất. Sau đó, xác định xem hàng hoá và nguyên liệu tham gia vào quá trình sản xuất đó có đáp ứng quy định tại Thông tư số 03/2019/TT-BCT và Thông tư số 06/2020/TT-BCT hay không. Cụ thể:
– Đối với hàng hoá không phải sản phẩm dệt may: khoản 1, Điều 5 Thông tư số 03/2019/TT-BCT quy định:
“Điều 5. Hàng hóa có xuất xứ
- Hàng hóa được coi là có xuất xứ nếu hàng hóa đó:
- a) Có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại lãnh thổ của một hay nhiều Nước thành viên theo quy định tại Điều 6 Thông tư này;
- b) Được sản xuất toàn bộ chỉ từ nguyên liệu có xuất xứ tại lãnh thổ của một hay nhiều Nước thành viên;
- c) Được sản xuất toàn bộ từ nguyên liệu không có xuất xứ tại lãnh thổ của một hay nhiều Nước thành viên với điều kiện hàng hóa đó đáp ứng tất cả các quy định tương ứng tại Phụ lục I (Quy tắc cụ thể mặt hàng) ban hành kèm theo Thông tư này.
– Đối với sản phẩm dệt may: Tiêu chí xuất xứ đối với sản phẩm dệt may được quy định tại Phụ lục VII (Quy tắc cụ thể mặt hàng đối với hàng dệt may) và Phụ lục VIII (Danh mục nguồn cung thiếu hụt) ban hành kèm theo Thông tư số 03/2019/ TT-BCT.
Quy trình thủ tục và hồ sơ cấp C/O CPTPP cho hàng xuất khẩu bao gồm những bước nào?
Thủ tục cấp C/O mẫu CPTPP cho hàng hóa xuất khẩu ưu đãi thuế quan theo Hiệp định CPTPP được quy định tại Nghị định 31/2018/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Quản lý ngoại thương về xuất xứ hàng hóa và Thông tư số 06/2020/TT-BCT sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 03/2019/TT-BCT. Theo đó, doanh nghiệp cần thực hiện các bước sau để xin cấp C/O CPTPP cho hàng xuất khẩu:
– Đăng ký hồ sơ thương nhân tại địa chỉ www.ecosys.gov.vn hoặc nộp trực tiếp tại cơ quan, tổ chức cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa. Doanh nghiệp chỉ được xem xét cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa khi đã đăng ký hồ sơ thương nhân đầy đủ và hợp lệ (quy định về hồ sơ thương nhân hợp lệ tại Điều 13 Nghị định 38/2018/NĐ-CP).
– Khai báo hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa theo biểu mẫu điện tử sẵn có trên Hệ thống quản lý và cấp chứng nhận xuất xứ điện tử của Bộ Công Thương tại địa chỉ www.ecosys.gov.vn (quy định về hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận hàng hoá tại Điều 15 Nghị định 38/2018/NĐ-CP). Theo đó, hồ sơ đề nghị cấp C/O CPTPP sẽ sử dụng mẫu C/O được quy định tại Phụ lục III và Phụ lục IV Thông tư số 06/2020/TT-BCT.
– Kết quả xét duyệt hồ sơ sẽ được cơ quan, tổ chức cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa thông báo trong thời hạn 6 giờ làm việc (nộp điện tử), 8 giờ làm việc (nộp trực tiếp), hoặc 24 giờ làm việc (nộp qua đường bưu điện) kể từ khi cơ quan, tổ chức cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa nhận được hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa đầy đủ và hợp lệ.
Mẫu C/O mẫu CPTPP được quy định tại Phục lục II ban hành kèm theo Thông tư số 06/2020/TT-BCT ngày 24 tháng 3 năm 2020.
Tự chứng nhận xuất xứ là gì? Doanh nghiệp nào được tự chứng nhận xuất xứ trong khuôn khổ CPTPP?
Cơ chế tự chứng nhận xuất xứ cho phép doanh nghiệp được tự chứng nhận và khai báo xuất xứ cho hàng hoá thuộc quyền sở hữu của mình.
Với mục tiêu tạo thuận lợi thương mại tối đa, giảm thời gian giao dịch và chi phí phát sinh trong hoạt động xuất nhập khẩu, Hiệp định CPTPP cho phép bất kỳ nhà xuất khẩu, nhà sản xuất và nhà nhập khẩu được tự chứng nhận xuất xứ. Đây là cơ chế chứng nhận mới so với các FTA truyền thống trước đây mà Việt Nam đã ký kết
Đối với Việt Nam, ngay khi Hiệp định CPTPP được phê chuẩn và có hiệu lực trong nước, Việt Nam thông báo với các nước thành viên CPTPP về việc Việt Nam áp dụng cơ chế cấp C/O truyền thống và mẫu C/O mẫu CPTPP của Việt Nam. Theo quy định tại Hiệp định CPTPP, kể từ khi Hiệp định có hiệu lực đối với Việt Nam, Việt Nam có tối đa 5 năm để chuyển sang áp dụng cơ chế nhà nhập khẩu tự chứng nhận xuất xứ và tối đa 10 năm để chuyển sang áp dụng cơ chế nhà xuất khẩu, nhà sản xuất từ chứng nhận xuất xứ.
- CPTPP và quy định về nhập khẩu
CPTPP quy định về cấp phép nhập khẩu như thế nào
Về cơ bản, Hiệp định CPTPP quy định các nước không được áp dụng hay duy trì các biện pháp về cấp phép nhập khẩu trái với các quy định của WTO. Tuy vậy, CPTPP đưa ra các quy định nghiêm ngặt hơn về thủ tục minh bạch hóa đối với các biện pháp này. Cụ thể, các nước phải thông báo đầy đủ và theo một thời hạn nhất định khi áp dụng mới hoặc sửa đổi một biện pháp về cấp phép nhập khẩu. Các nước cũng phải có nghĩa vụ tiến hành tham vấn và/hoặc trả lời câu hỏi của nước khác khi được yêu cầu về biện pháp được áp dụng.
Trong mối quan hệ với doanh nghiệp xin cấp phép nhập khẩu, nếu một nước từ chối đơn xin cấp phép nhập khẩu đối với một hàng hóa của một nước khác thì theo yêu cầu của doanh nghiệp nộp đơn, nước đó phải trả lời bằng văn bản lý do từ chối trong một khoảng thời gian hợp lý sau khi nhận được yêu cầu.
Các quy định liên quan đến phí và thủ tục hành chính đối với hàng nhập khẩu trong Hiệp định CPTPP có gì khác so với quy định của WTO
Tương tự như quy định trong WTO, Hiệp định CPTPP quy định rằng tất cả các loại phí và lệ phí với bất kỳ tính chất nào (ngoại trừ thuế xuất khẩu, thuế hải quan, phí tương đương với thuế nội địa hoặc các phí nội địa khác, thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng) được các nước áp dụng với hoặc liên quan đến xuất khẩu, nhập khẩu chỉ được giới hạn trong khoản giá trị tương ứng với phí dịch vụ phải nộp và không phải là phương thức bảo hộ hàng hóa nội địa hoặc là khoản thuế đánh vào hàng xuất khẩu, nhập khẩu nhằm mục đích tài chính.
Ngoài ra, một quy định khác với CPTPP là các nước không được yêu cầu giao dịch lãnh sự bao gồm các loại phí và lệ phí liên quan đến việc nhập khẩu bất kỳ hàng hóa nào từ nước thành viên CPTPP khác.
Hiệp định CPTPP là FTA đầu tiên mà Việt Nam có cam kết về việc nhập khẩu đối với hàng tân trang. Cam kết cụ thể của nội dung này là gì
Theo quy định của CPTPP, hàng tân trang không được coi là hàng đã qua sử dụng, và một nước khi áp dụng hoặc duy trì các biện pháp cấm hoặc hạn chế nhập khẩu hàng hóa đã qua sử dụng thì các biện pháp này sẽ không được áp dụng với hàng tân trang.
Theo cam kết của Hiệp định, Việt Nam không có nghĩa vụ phải mở cửa hàng tân trang trong 3 năm đầu tiên sau khi Hiệp định có hiệu lực. Sau thời gian đó, Việt Nam phải mở cửa thị trường đối với hàng tân trang, tức là cho phép nhập khẩu hàng tân trang nhưng được bảo lưu đối với 1 số mặt hàng gồm quạt, máy điều hòa không khí, bình đun nước nóng, máy làm khô quần áo, máy lọc nước, máy rửa bát, máy khâu gia đình, máy hút bụi, mô tô và xe đạp có gắn động cơ, xe đạp không lắp động cơ với mã HS cụ thể như sau:
8414.51.91 | – – – – Có lưới bảo vệ |
8414.51.99 | – – – – Loại khác |
8415.10.10 | – – Công suất không quá 26,38 kW |
8415.10.90 | – – Loại khác |
8419.11.10 | – – – Loại sử dụng trong gia đình |
8419.19.10 | – – – Loại sử dụng trong gia đình |
8421.12.00 | – – Máy làm khô quần áo |
8421.21.11 | – – – – Máy và thiết bị lọc sử dụng trong gia đình |
8421.91.10 | – – – Của hàng hóa thuộc phân nhóm 8421.12.00 |
8422.11.00 | – – Loại sử dụng trong gia đình |
8422.90.10 | – – Của hàng hóa thuộc phân nhóm 8422.11 |
8452.10.00 | – Máy khâu dùng cho gia đình |
8508.19.10 | – – – Loại phù hợp dùng cho mục đích gia dụng |
8508.70.10 | – – Máy hút bụi của phân nhóm 8508.11.00 hoặc 8508.19.10 |
8711 | Mô tô (kể cả xe gắn máy có bàn đạp) và xe đạp có gắn động cơ phụ trợ, có hoặc không có thùng xe cạnh; mô tô thùng. |
8712 | Xe đạp hai bánh và xe đạp khác (kể cả xe xích lô ba bánh chở hàng) không lắp động cơ (trừ xe đạp đua có mã HS 8712.00.10) |
- CPTPP và lĩnh vực dệt may
Hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang thị trường các nước CPTPP sẽ được hưởng những ưu đãi về thuế quan như thế nào?
Hiệp định CPTPP sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với hàng dệt may có xuất xứ từ Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường các nước đối tác (ngay hoặc có lộ trình). Đối với những nước mà Việt Nam chưa có FTA, việc mở cửa thị trường này rất quan trọng, do thuế nhập khẩu áp dụng với hàng dệt may thường cao hơn nhiều so với các mặt hàng công nghiệp khác.
Về cơ bản, cam kết về xóa bỏ thuế nhập khẩu CPTPP đối với hàng dệt may là khá cao, với hầu hết 80 – 99% dòng thuế được xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực (trừ Mê-hi-cô). Cụ thể:
– Ốt-xtrây-li-a cam kết xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực với 81,8% dòng thuế dệt may của Việt Nam, và cắt giảm và xóa bỏ thuế theo lộ trình 3– 4 năm với 18,2% dòng thuế còn lại.
– Niu Di-lân cam kết xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực với 81,4% dòng thuế dệt may của Việt Nam, và cắt giảm và xóa bỏ thuế theo lộ trình 5 – 7 năm với 18,6% dòng thuế còn lại.
Lưu ý: Cần lưu ý rằng lộ trình cắt giảm thuế quan trong CPTPP chậm hơn cam kết của Ốt-xtrây-li-a và Niu Di-lân dành cho ViệtNam trong khuôn khổ Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Ốt-xtrây-li-a, Niu Di-lân (AANZFTA) (toàn bộ hàng dệt may của Việt Nam được xóa bỏ thuế quan từ năm 2020 trong AANZFTA).
– Xinh-ga-po cam kết xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực với tất cả các dòng thuế dệt may của Việt Nam.
– Bru-nây cam kết xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực với 95,2% dòng thuế dệt may của Việt Nam, và cắt giảm và xóa bỏ thuế theo lộ trình 7 năm với 4,8% dòng thuế còn lại.
– Ma-lai-xi-a cam kết xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực với 99,4% dòng thuế dệt may của Việt Nam, và cắt giảm và xóa bỏ thuế theo lộ trình 6 năm với 0,6% dòng thuế còn lại.
Lưu ý: Lộ trình cắt giảm thuế quan đối với hàng dệt may Việt Nam của Xinh-ga-po, Bru-nây và Ma-lai-xi-a trong CPTPP chậm hơn cam kết trong khuôn khổ Hiệp định thương mại hàng hóa trong ASEAN (ATIGA) (toàn bộ hàng dệt may của Việt Nam được xóa bỏ thuế quan từ năm 2010 trong ATIGA).
– Ca-na-đa cam kết xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực với 88,8% dòng thuế dệt may của Việt Nam, cắt giảm và xóa bỏ thuế theo lộ trình 4 – 6 năm với 11,2% dòng thuế còn lại.
– Pê-ru cam kết xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực với 13,3% dòng thuế dệt may của Việt Nam, cắt giảm và xóa bỏ thuế theo lộ trình 6 – 16 năm với 86,7% dòng thuế còn lại.
Lưu ý: Ca-na-đa và Pê-ru đều chưa có FTA nào với Việt Nam và hiện đang duy trì mức thuế MFN trung bình đáng kể đối với mặt hàng này (Ca-na-đa là 15,79% và Pê-ru là 10,88% đối với các sản phẩm dệt may Chương 61 – 63). Do đó, các cam kết cắt giảm thuế quan trong Hiệp định CPTPP mà hai quốc gia này dành cho hàng Việt Nam là tương đối đáng kể và dự kiến sẽ đem lại lợi ích cho doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, để được hưởng thuế ưu đãi, sản phẩm dệt may Việt Nam cần tuân thủ quy tắc xuất xứ CPTPP. Ngoài ra, cần lưu ý rằng hiện Pê-ru chưa phê chuẩn Hiệp định CPTPP, nên các cam kết thuế quan này chưa có hiệu lực.
– Mê-hi-cô cam kết xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực với 27,6% dòng thuế dệt may của Việt Nam, và cắt giảm và xóa bỏ thuế theo lộ trình 5 – 16 năm với 72,4% dòng thuế còn lại. So với cam kết của các nước thành viên CPTPP khác, đây không phải là mức cam kết cắt giảm thuế quan cao đối với hàng dệt may Việt Nam.
– Nhật Bản cam kết xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực với 98,5% dòng thuế dệt may của Việt Nam, cắt giảm và xóa bỏ thuế theo lộ trình 11 năm với 1,2% dòng thuế (24 dòng thuế), và giữ nguyên mức thuế MFN đối với 0,3% dòng thuế (5 dòng thuế).
– Chi-lê cam kết xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực với 87% dòng thuế dệt may của Việt Nam,và cắt giảm và xóa bỏ thuế theo lộ trình 4 – 8 năm với 13% dòng thuế còn lại. So sánh với FTA song phương Việt Nam – Chi-lê (VCFTA) đã có hiệu lực từ năm 2014 với gần một nửa số dòng thuế về dệt may có lộ trình cắt giảm thuế từ 5 – 10 năm, lộ trình cắt giảm thuế trong Hiệp định CPTPP không thực sự đem lại lợi thế cho doanh nghiệp dệt may Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này.
Lưu ý: Nhật Bản và Chi-lê đều đã có FTA song phương với Việt Nam (VJEPA đối với Nhật Bản và VCFTA đối với Chi-lê) và đã đưa ra những cam kết cắt giảm thuế quan đối với hàng dệt may cao hơn các cam kết trong Hiệp định CPTPP.
De minimis là gì? Quy định về de minimis được áp dụng như thế nào đối với hàng dệt may trong CPTPP?
Trong các FTA, các nước tham gia đàm phán thường đưa ra quy định về tỷ lệ “linh hoạt” tối đa cho phép sử dụng một lượng nhỏ nguyên liệu không có xuất xứ và không đáp ứng tiêu chí chuyển đổi mã số hàng hoá (CTC – Change in Tariff Classification) để sản xuất và hàng hóa vẫn được coi là có xuất xứ. Tỷ lệ này được gọi là “De minimis” và là tỷ lệ không đáng kể nguyên liệu không trải qua quá trình chuyển đổi mã số hàng hóa nhưng vẫn được coi là có xuất xứ.
Hiệp định CPTPP linh hoạt cho phép hàng hóa không có xuất xứ chiếm 10% trị giá của bộ hàng hóa và hàng hoá đấy vẫn được coi là có xuất xứ CPTPP. Tuy nhiên, quy định này không áp dụng đối với các sản phẩm dệt may (có quy định riêng về De minimis) và với một số mặt hàng được quy định cụ thể trong Phụ lục 3-C (Các ngoại trừ đối với Nguyên tắc De minimis) trong Chương 3 của Hiệp định. Cụ thể, tỷ lệ De minimis đối với hàng dệt may trong Hiệp định CPTPP được tính dựa vào trọng lượng hàng hoá cuối cùng và được quy định như sau:
– Đối với hàng dệt may thuộc Chương 61 – 63 sử dụng xơ hoặc sợi không có xuất xứ: Trọng lượng của xơ hoặc sợi không có xuất xứ không vượt quá 10% thành phần quyết định đến phân loại mã số hàng hóa sử dụng xơ hoặc sợi đó;
– Đối với hàng dệt may không thuộc Chương 61 – 63: 10% trọng lượng của hàng hoá;
– Đối với hàng dệt may có chứa sợi co giãn (elastomeric yarn) trong thành phần chính xác định phân loại mã số hàng hóa: Sợi co giãn phải được sản xuất toàn bộ tại lãnh thổ của một hay nhiều nước thành viên.
Danh mục nguồn cung thiếu hụt là gì?
Danh mục nguồn cung thiếu hụt là một cơ chế linh hoạt cho phép việc sử dụng một số loại sợi và vải nhất định không có sẵn trong khu vực để sản xuất hàng dệt may mà vẫn được hưởng ưu đãi thuế quan theo CPTPP. Danh mục này được quy định trong Phụ lục 4-A của Chương 4 Hiệp định TPP, bao gồm 194 loại sợi, vải được phép sử dụng từ ngoài khu vực CPTPP chia làm 2 nhóm:
– Danh mục nguồn cung thiếu hụt tạm thời: bao gồm 08 loại nguyên liệu chỉ được nhập khẩu từ các nước ngoài CPTPP trong vòng 5 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực;
– Danh mục nguồn cung thiếu hụt vĩnh viễn: bao gồm 186 loại nguyên liệu được phép nhập khẩu vĩnh viễn từ các nước ngoài CPTPP.
- CPTPP và Hải quan
Nếu doanh nghiệp của tôi vận chuyển hàng hoá đến cửa khẩu nước bạn, chúng tôi đã cung cấp các giấy tờ cần thiết nhưng vẫn đang gặp tranh chấp về số tiền thuế hoặc phí phải đóng thì phải làm sao?
Theo quy định của Hiệp định CPTPP, nhằm tạo thuận lợi thương mại giữa các Bên, nếu bên xuất khẩu đã đáp ứng các điều kiện giải phóng hàng hoá cần thiết, cán bộ hải quan của nước nhập khẩu nếu chưa xác định được mức thuế phí phải đóng thì người xuất khẩu có thể yêu cầu đóng bảo lãnh hoặc tạm thanh toán thuế với giá trị không lớn hơn giá trị yêu cầu. Muộn nhất 48 giờ kể từ khi hàng đến, cán bộ hải quan cho hàng hoá thông quan và cho doanh nghiệp đóng bảo lãnh. Khi doanh nghiệp cung cấp thêm các giấy tờ phục vụ cho việc xác định chính xác thuế thì doanh nghiệp có thể quay lại nộp giấy tờ và tiền thuế cần đóng, khi đó hải quan sẽ hoàn trả lại số tiền bảo lãnh đã đóng.
Trong Hiệp định CPTPP quy định các khoản bảo lãnh không lớn hơn khoản yêu cầu, phải được trả lại sớm nhất ngay khi xác minh được số thuế chính xác doanh nghiệp phải đóng và doanh nghiệp có thể nộp bảo lãnh bằng các công cụ tài chính phi tiền mặt và các công cụ tài chính sử dụng cho nhiều lần xuất nhập khẩu cùng một mặt hàng.
- CPTPP và TBT, SPS
Quy định về TBT trong CPTPP có khác gì so với trong WTO
Trong CPTPP, bên cạnh việc yêu cầu các tiêu chuẩn kỹ thuật mà các nước ban hành cần phải tuân thủ theo các nguyên tắc của WTO về vấn đề này, CPTPP còn bổ sung thêm các yêu cầu về tính minh bạch, về quy trình đánh giá sự phù hợp, và tiêu chuẩn kỹ thuật với một số loại hàng hoá cụ thể để tránh các biện pháp TBT mà các nước ban hành ra gây cản trở đến tự do hoá thương mại. Cụ thể:
Yêu cầu về minh bạch: Thời gian lấy ý kiến tối thiểu từ ngày chuyển dự thảo về quy định mới ban hành về quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp là 60 ngày, khuyến khích gia hạn thời gian tối thiểu hơn 60 ngày. Thời gian ban hành và thời gian có hiệu lực của quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp nhiều hơn 6 tháng.
Quy trình đánh giá sự phù hợp: Không được yêu cầu các tổ chức đánh giá sự phù hợp phải đặt trụ sở hay văn phòng đại diện trên lãnh thổ nước mình. Không phân biệt đối xử giữa tổ chức đánh giá sự phù hợp đặt trụ sở ở nước mình và nước ngoài.
Tiêu chuẩn kỹ thuật với một số hàng hoá cụ thể: CPTPP có phụ lục về nguyên tắc khi ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật với 6 nhóm hàng hoá cụ thể, bao gồm: rượu vang và đồ uống chưng cất, các sản phẩm công nghệ thông tin, dược phẩm, thiết bị y tế, mỹ phẩm, thực phẩm đóng gói và phụ gia thực phẩm. Sở dĩ các nhóm mặt hàng này có những nguyên tắc cụ thể khi ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật bởi một số nước tham gia Hiệp định CPTPP đều có thế mạnh về các mặt hàng này. Họ lo sợ một số nước khác cạnh tranh bằng cách ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật để hạn chế việc thương mại các sản phẩm họ có thế mạnh.
Quy định về SPS trong CPTPP có khác gì so với trong WTO
Về cơ bản các quy định trong chương 7 về các biện pháp vệ sinh dịch tễ, an toàn thực phẩm SPS trong CPTPP giống với các quy định trong Hiệp định SPS của WTO. Tuy nhiên, các quy định về SPS trong CPTPP khác biệt hơn ở phần mở rộng hơn các nghĩa vụ về hợp tác và tham vấn trong các vấn đề liên quan đến SPS, quy trình phân tích khoa học và rủi ro trước khi ban hành các biện pháp SPS, xác minh quy trình chứng nhận SPS, kiểm tra chuyên ngành SPS và các biện pháp SPS khẩn cấp. Cụ thể:
Hợp tác và tham vấn: Bên có quan ngại cố gắng tiến hành tham vấn theo cơ chế và thủ tục hành chính bên kia đang áp dụng hoặc Hợp tác tham vấn kỹ thuật (CTC) nếu phù hợp. Trong vòng 30 ngày kể từ ngày chấp thuận thảo luận, hai bên gặp nhau để giải quyết. Trong vòng 180 kể từ ngày nhận được yêu cầu, vấn đề phải được giải quyết.
Quy trình phân tích khoa học và rủi ro trước khi ban hành các biện pháp SPS. Các biện pháp SPS phải dựa trên các cơ sở khoa học khách quan hoặc tuân thủ hướng dẫn và khuyến nghị của các tổ chức quốc tế được WTO công nhận (CODEX, OIE và IPPC), các bên có cơ hội góp ý cho quy trình đánh giá rủi ro được gửi tới bởi nước áp dụng biện pháp SPS, đồng thời các rủi ro phải được đánh giá phù hợp với hoàn cảnh rủi ro của vấn đề và có tính đến các cơ sở số liệu khoa học hiện có. Trong trường hợp đánh giá rủi ro đưa ra kết quả thông qua việc áp dụng một biện pháp SPS thì biện pháp đó chỉ được áp dụng trong một khoảng thời gian hợp lý.
Xác minh quy trình chứng nhận SPS: nước nhập khẩu được quyền xác minh lại quy trình chứng nhận SPS của các cơ quan chứng nhận SPS của nước xuất khẩu bằng cả văn bản và thực địa trước khi quyết định chấp thuận chứng nhận SPS. Khi thanh tra, phải dựa trên hệ thống và thiết lập để kiểm tra hiệu quả trong quản lý của cơ quan có thẩm quyền. Trước khi thanh tra, cả hai bên cùng thảo luận về cách thức và quyết định mục tiêu và phạm vi của việc thanh tra; các tiêu chuẩn hoặc yêu cầu kháng nghị mà Bên xuất khẩu sẽ được đánh giá; và trình tự và quy trình khi tiến hành thanh tra. Đồng thời, bên thanh tra phải cho bên bị thanh tra cơ hội góp ý kết quả thanh tra trước khi có kết luận chính thức.
Kiểm tra chuyên ngành SPS khi nhập khẩu: các kiểm tra phải dựa trên các rủi ro liên quan đến nhập khẩu và phải được tiến hành sớm để không gián đoạn thương mại. Khi các nước khác yêu cầu, một nước tiến hành kiểm tra cần cung cấp đầy đủ các thông tin về quy trình, căn cứ, tần suất kiểm tra cho các nước khác. Việc kiểm tra này phải được thực hiện tại các cơ sở hợp pháp đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Kết quả kiểm tra cần được thông báo trong 7 ngày nếu áp dụng biện pháp cấm hoặc hạn chế nhập khẩu, cùng với đó là lý do áp dụng.
Áp dụng biện pháp SPS khẩn cấp: Trong trường hợp sử dụng các biện pháp SPS khẩn cấp để bảo vệ sức khoẻ, tính mạng của người, động thực vật thì phải thông báo cho các nước khác và sau 6 tháng phải rà soát đánh giá lại việc áp dụng có còn cần thiết hay không.
- CPTPP và Đầu tư
Thế nào là “khoản đầu tư được bảo đảm” bởi Hiệp định này?
Theo Hiệp định CPTPP, các “khoản đầu tư được bảo đảm” bởi Hiệp định này là “khoản đầu tư” của một nước CPTPP vào lãnh thổ một nước CPTPP khác và đã tồn tại kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực hoặc được thực hiện, mua lại hay mở rộng sau đó.
Trong khi đó, “khoản đầu tư” được định nghĩa là mọi tài sản do nhà đầu tư sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp với các đặc điểm như có cam kết về vốn đầu tư hoặc các nguồn lực khác, có kỳ vọng về lợi nhuận, hoặc gánh chịu rủi ro.Vì vậy, “khoản đầu tư được bảo đảm theo Hiệp định này” là mọi tài sản mà nhà đầu tư của một nước CPTPP khác sở hữu hoặc kiểm soát, tồn tại trên lãnh thổ của nước CPTPP khác kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực hoặc được thành lập, mua lại, hay mở rộng sau đó.
Do vậy, đối với các nước CPTPP mà Hiệp định đã có hiệu lực, bất cứ tài sản nào của nhà đầu tư của nước CPTPP khác mà họ sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp với các đặc điểm đáp ứng được yêu cầu của Hiệp định đều được bảo vệ. Ngoài ra, các tài sản này có thể bao gồm các khoản đầu tư được thành lập mới, mua lại hay mở rộng.
Đầu tư của một nhà đầu tư được bảo đảm như thế nào trong khuôn khổ CPTPP?
Để bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài, chương Đầu tư cho phép nhà đầu tư nước ngoài được tiến hành khởi kiện ra cơ quan trọng tài quốc tế, theo các quy định và quy trình được mô tả rõ ràng, nếu thấy quyền lợi của mình bị chính quyền nước sở tại xâm phạm. Ví dụ, nhà đầu tư nước ngoài có quyền khởi kiện khi quyền lợi bị xâm phạm như trưng thu, tước quyền sở hữu, tiêu chuẩn đối xử tối thiểu… ngoại trừ trường hợp có tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện các cam kết hay nghĩa vụ của hợp đồng đầu tư và chấp thuận đầu tư. Thậm chí, trong trường hợp nước nhận đầu tư bị thua kiện mà không tuân thủ phán quyết của trọng tài, Hiệp định CPTPP cũng đề ra cơ chế buộc nhà nước phải thực thi phán quyết thông qua việc nhà nước nơi nhà đầu tư mang quốc tịch yêu cầu thành lập ban hội thẩm để xem xét việc không tuân thủ phán quyết cuối cùng.
Ngoài ra, Hiệp định cũng quy định rõ ràng về các điều kiện của tước quyền sở hữu và bồi thường. Theo đó, tước quyền sở hữu chỉ có thể xảy ra vì các mục đích sau: (i) vì mục đích công cộng; (ii) trên cơ sở không phân biệt đối xử; (iii) với điều kiện thực hiện bồi thường nhanh chóng, thỏa đáng và hiệu quả theo quy định tại các hoản 2, 3 và 4; và (iv) phù hợp với thủ tục pháp luật.
CPTPP mang đến cơ hội gì cho các doanh nghiệp của Việt Nam kinh doanh các dịch vụ như du lịch, tài chính, viễn thông, phân phối v.v…?
Thông qua Hiệp định CPTPP, các nước dành cho Việt Nam mức mở cửa thị trường dịch vụ đầu tư tốt hơn mức họ đã cam kết các FTA song phương đã ký với Việt Nam và với nhiều đối tác khác. Do vậy, cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư, cung cấp dịch vụ vào thị trường các nước CPTPP được cải thiện đáng kể. Các doanh nghiệp hiện đang triển khai các dự đầu tư ra nước ngoài như Viettel, PVN sẽ được hưởng mức đãi ngộ tốt hơn, giúp nâng cao hiệu quả và lợi nhuận kinh doanh.
Các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ đầu tư của Việt Nam trong CPTPP cũng tạo cơ hội cho nhà đầu tư, cung cấp dịch vụ nước ngoài thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Người dân, do vậy, sẽ có thêm các lựa chọn về sản phẩm dịch vụ tiêu dùng chất lượng hơn, giá thành hợp lý hơn. Thị trường trở nên cạnh tranh hơn cũng gián tiếp thúc đẩy việc cải cách, đổi mới cơ cấu, cách thức hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trên sân nhà. Về lâu dài, đây sẽ là cơ hội để Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.