- Cam kết mở cửa thị trường hàng hóa của EU
- EU cam kết xóa bỏ thuế quan ngay khi EVFTA có hiệu lực đối với hàng hóa của Việt Nam thuộc 85,6% số dòng thuế trong biểu thuế, tương đương 70,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU;
- Trong vòng 7 năm kể từ khi EVFTA có hiệu lực, EU cam kết xóa bỏ 99,2% số dòng thuế trong biểu thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU. Đối với 0,3% kim ngạch xuất khẩu còn lại (bao gồm: 1 số sản phẩm gạo, ngô ngọt, tỏi, nấm, đường và cá sản phẩm chứa hàm lượng đường cao, tinh bột sắn, cá ngừ đóng hộp), EU cam kết mở cửa cho Việt Nam theo hạn ngạch thuế quan (TRQs) với thuế nhập khẩu trong hạn ngạch là 0%.
Bảng Tổng hợp cam kết mở cửa của EU đối với một số nhóm hàng hóa quan trọng của Việt Nam
Sản phẩm |
Cam kết của EU |
Dệt may |
Xóa bỏ thuế trong vòng 7 năm
Lưu ý:
Quy tắc xuất xứ: phải sử dụng vải sản xuất tại VN
Đặc biệt: được phép sử dụng thêm vải sản xuất tại Hàn Quốc |
Giày dép |
Xóa bỏ thuế trong vòng 7 năm |
Thủy sản (trừ cá ngừ đóng hộp và cá viên) |
Xóa bỏ thuế trong vòng 7 năm |
Cá ngừ đóng hộp |
Hạn ngạch thuế quan |
Gạo xay xát, gạo chưa xay xát và gạo thơm |
Hạn ngạch thuế quan |
Gạo tấm |
Xóa bỏ thuế theo lộ trình |
Sản phẩm từ gạo |
Xóa bỏ thuế trong vòng 7 năm |
Ngô ngọt |
Hạn ngạch thuế quan |
Tinh bột sắn |
Hạn ngạch thuế quan |
Mật ong |
Xóa bỏ thuế ngay |
Đường và các sản phẩm chứa hàm lượng đường cao |
Hạn ngạch thuế quan |
Rau củ quả, rau của quả chế biến, nước hoa quả |
Phần lớn xóa bỏ thuế quan ngay |
Tỏi |
Hạn ngạch thuế quan |
Túi xách, vali |
Phần lớn xóa bỏ thuế quan ngay |
Sản phẩm nhựa |
Phần lớn xóa bỏ thuế quan ngay |
Sản phẩm gốm sứ thủy tinh |
Phần lớn xóa bỏ thuế quan ngay |
Nguồn: Bộ Công Thương Việt Nam - Ủy ban châu Âu
- Cam kết mở cửa thị trường hàng hóa của Việt Nam
- Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế quan ngay sau khi EVFTA có hiệu lực cho hàng hóa của EU thuộc 65% số dòng thuế trong biểu thuế;
- Trong vòng 10 năm kể từ khi EVFTA có hiệu lực, Việt Nam cam kết sẽ xóa bỏ trên 99% số dòng thuế trong biểu thuế. Số dòng thuế còn lại sẽ áp dụng hạn ngạch thuế quan với mức thuế trong hạn ngạch là 0%.
Bảng Tổng hợp cam kết mở cửa của Việt Nam đối với một số nhóm hàng hóa quan trọng của EU
Sản phẩm |
Cam kết của EU |
Hầu hết máy móc, thiết bị, đồ điện gia dụng |
Xóa bỏ thuế trong vòng 5 năm |
Xe máy có dung tích xy-lanh trên 150 cm3 |
Xóa bỏ thuế trong vòng 7 năm |
Ô tô (trừ loại có dung tích
xi-lanh lớn) |
Xóa bỏ thuế trong vòng 10 năm |
Ô tô có dung tích xi-lanh lớn (trên 3000 cm3 với loại dùng xăng hoặc trên 2500 cm3 với loại dùng diesel) |
Xóa bỏ thuế trong vòng 9 năm |
Phụ tùng ô tô |
Xóa bỏ thuế trong vòng 7 năm |
Dược phẩm |
Khoảng một nửa số dòng thuế nhóm dược phẩm sẽ được xóa bỏ thuế ngay, phần còn lại trong vòng 7 năm |
Vải dệt (textile fabric) |
Xóa bỏ thuế ngay |
Hóa chất
|
Khoảng 70% số dòng thuế nhóm hóa chất sẽ được xóa bỏ thuế ngay, phần còn lại trong vòng 3, 5 hoặc 7 năm. |
Rượu vang, rượu mạnh, bia |
Xóa bỏ thuế tối đa là trong vòng10 năm |
Rượu và đồ uống có cồn |
Xóa bỏ thuế trong vòng 7 năm |
Thịt lợn đông lạnh |
Xóa bỏ thuế trong vòng 7 năm |
Thịt bò |
Xóa bỏ thuế trong vòng 3 năm |
Thịt gà |
Xóa bỏ thuế trong vòng 10 năm |
Các sản phẩm sữa |
Xóa bỏ thuế tối đa là trong vòng 5 năm |
Thực phẩm chế biến |
Xóa bỏ thuế tối đa là trong vòng 7 năm |
Nguồn: Bộ Công Thương Việt Nam - Ủy ban châu Âu
- Hạn ngạch thuế quan
Bên cạnh thuế nhập khẩu, Việt Nam và EU cũng áp dụng hạn ngạch thuế quan (HNTQ) đối với một số ít mặt hàng có xuất xứ từ Bên kia. Nội dung cam kết này được quy định tại Phần B - Hạn ngạch thuế quan, Phụ lục 2-A của EVFTA, bao gồm các nguyên tắc chính, cam kết cụ thể theo từng mặt hàng kèm theo các quy định, yêu cầu tương ứng để được cấp HNTQ.
Cam kết hạn ngạch thuế quan của EU
EU sẽ quản lý HNTQ theo luật của EU, với mục tiêu tạo thuận lợi thương mại giữa các Bên theo hướng tận dụng tối đa lượng HNTQ.
14 mặt hàng thuộc diện cam kết HNTQ gồm: trứng và lòng đỏ trứng gia cầm; tỏi; ngô ngọt; gạo đã xát; gạo đã xay; gạo đã xay đáp ứng yêu cầu đúng chủng loại; tinh bột sắn; cá ngừ; surimi; đường và các sản phẩm khác chứa hàm lượng đường cao; đường đặc biệt; nấm; ethanol; và mannitol, sorbitol, dextrin và các dạng tinh bột biến tính khác.
Các mặt hàng có xuất xứ được nhập khẩu vào EU nằm trong lượng hạn ngạch nêu trên sẽ được miễn thuế nhập khẩu. Đối với lượng ngoài hạn ngạch nêu trên, thuế nhập khẩu sẽ được áp dụng theo mức thuế suất ngoài hạn ngạch mà EU đang áp dụng trong khuôn khổ WTO.
Cam kết HNTQ của Việt Nam
Trong khuôn khổ EVFTA, Việt Nam vẫn duy trì việc áp dụng HNTQ theo cam kết WTO đối với lượng hạn ngạch, phương thức quản lý và các điều khoản và điều kiện khác liên quan đến việc phân bổ HNTQ. Theo đó, các mặt hàng thuộc diện HNTQ gồm: trứng, đường, muối và lá thuốc lá. Thuế suất trong hạn ngạch đối với các mặt hàng này sẽ được xóa bỏ dần đều trong 11 năm kể từ ngày EVFTA có hiệu lực.
- Hàng tân trang
Theo EVFTA, hàng tân trang là hàng hóa được phân loại tại Chương 84, 85, 87, 90 và 9402, ngoại trừ các hàng hóa được liệt kê tại Phụ lục 2-A-5 của Hiệp định (Danh mục loại trừ đối với hàng tân trang), theo đó hàng tân trang là hàng hóa: (i) được cấu tạo hoàn toàn hoặc một phần từ các bộ phận của sản phẩm đã được sử dụng trước đó; (ii) có tính năng hoạt động và các điều kiện cũng như tuổi thọ tương tự như sản phẩm mới nguyên bản và được bảo hành như hàng mới.
Việt Nam và EU cam kết sẽ đối xử với hàng tân trang như đối với hàng mới tương tự. Điều này có nghĩa là Việt Nam cho phép nhập khẩu hàng tân trang có xuất xứ EU với mức thuế nhập khẩu, các loại thuế và phí khác tương tự như hàng mới cùng loại. Cam kết này không ngăn cản một bên quyền được yêu cầu dán nhãn đối với hàng tân trang nhằm tránh gây sự nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Bên cạnh đó, Việt Nam có thời gian chuyển đổi là 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực để thực thi nghĩa vụ này.
- Hàng hóa sửa chữa
EVFTA quy định các bên không được áp thuế quan đối với hàng hóa bất kỳ có xuất xứ từ đâu được tái nhập khẩu vào nước mình sau khi tạm thời xuất khẩu từ nước mình sang nước Bên kia để sửa chữa. Tương tự, hàng hóa được tạm thời nhập khẩu từ một nước thành viên của Hiệp định để sửa chữa cũng không bị áp thuế nhập khẩu.
Khái niệm “sửa chữa” ở đây có nghĩa là bất kỳ hoạt động xử lý nào thực hiện trên hàng hóa để khắc phục các khiếm khuyết vận hành hoặc hư hỏng vật chất và tái lập hàng hóa trở về chức năng ban đầu hoặc nhằm đảm bảo tuân thủ các yêu cầu kỹ thuật cho việc sử dụng hàng hóa đó mà nếu thiếu quá trình xử lý này thì hàng hóa không thể sử dụng một cách bình thường theo mục đích ban đầu. Sửa chữa hàng hóa cũng bao gồm cả việc khôi phục và bảo trì.
- Dược phẩm
Trong khuôn khổ EVFTA, Việt Nam cam kết cho phép các công ty dược phẩm nước ngoài thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được nhập khẩu dược phẩm mà đã có sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền Việt Nam về việc tiếp thị. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đó được phép bán dược phẩm được nhập khẩu hợp pháp cho các nhà phân phối hoặc nhà bán buôn mà có quyền phân phối dược phẩm tại Việt Nam.
Ngoài ra, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng có các quyền liên quan đến dược phẩm đã được doanh nghiệp nhập khẩu như sau: (i) xây dựng nhà kho để chứa dược phẩm; (ii) cung cấp thông tin về dược phẩm cho các chuyên gia chăm sóc sức khỏe; và (iii) thực hiện nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng nhằm đảm bảo dược phẩm mà họ nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam là thích hợp cho tiêu dùng nội địa.
- Cam kết về thuế xuất khẩu
Việt Nam cam kết xóa bỏ hầu hết các loại thuế xuất khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu sang EU, và cam kết không tăng thuế đối với các sản phẩm còn lại (trong đó có dầu thô và than đá).
Trong EVFTA, Việt Nam đã bảo lưu quyền áp dụng thuế xuất khẩu đối với 526 dòng thuế, trong đó có các sản phẩm quan trọng như dầu thô, than đá (trừ than để luyện cốc và than cốc), quặng. Đối với các dòng thuế có mức thuế xuất khẩu hiện hành tương đối cao, Việt Nam cam kết mức trần thuế xuất khẩu về 20% trong thời gian tối đa là 5 năm (riêng quặng mănggan có mức trần 10%). Với các sản phẩm khác, Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế xuất khẩu theo lộ trình tối đa là 16 năm.
- Cam kết về hàng rào phi thuế
- Rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT):
Hai Bên thỏa thuận tăng cường thực hiện các quy tắc của Hiệp định về các Rào cản kỹ thuật đối với thương mại của WTO (Hiệp định TBT), trong đó Việt Nam cam kết tăng cường sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong ban hành các quy định về TBT của mình.
Hiệp định có 01 Phụ lục riêng quy định về các hàng rào phi thuế đối với lĩnh vực ô tô, trong đó Việt Nam cam kết công nhận toàn bộ Chứng chỉ hợp chuẩn đối với ô tô (COC) của EU sau 5 năm kể từ khi EVFTA có hiệu lực;
Việt Nam cam kết chấp nhận nhãn “Sản xuất tại EU” (Made in EU) cho các sản phẩm phi nông sản (trừ dược phẩm) đồng thời vẫn chấp nhận nhãn xuất xứ cụ thể ở một nước EU.
- Các biện pháp vệ sinh dịch tễ (SPS):
Việt Nam và EU đạt được thỏa thuận về một số nguyên tắc về SPS nhằm tạo điều kiện cho hoạt động thương mại đối với các sản phẩm động vật, thực vật. Đặc biệt, Việt Nam công nhận EU như một khu vực thống nhất khi xem xét các vấn đề về SPS.
- Các biện pháp phi thuế quan khác
Hiệp định cũng bao gồm các cam kết theo hướng giảm bớt hàng rào thuế quan khác (ví dụ về cam kết về cấp phép xuất khẩu/nhập khẩu, thủ tục hải quan…) nhằm tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai Bên.
- Phụ lục về dược phẩm
- Hiệp định có một Phụ lục riêng về dược phẩm (sản phẩm xuất khẩu quan trọng của EU, chiếm 9% tổng nhập khẩu từ EU và Việt Nam) trong đó:
- Hai Bên cam kết về một số biện pháp nhằm tạo thuận lợi cho thương mại dược phẩm giữa EU và Việt Nam;
- Việt Nam cam kết cho phép các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được nhập khẩu và bán thuốc cho các nhà phân phối và các nhà bán buôn ở Việt Nam
- Việt Nam có các cam kết về việc cho phép nhà thầu EU tham gia các gói thầu dược phẩm.
- Quy tắc xuất xứ
- Cách xác định xuất xứ hàng hóa
- Quy tắc xuất xứ trong Hiệp định EVFTA không hoàn toàn mới đối với doanh nghiệp Việt Nam vì được xây dựng dựa trên quy tắc xuất xứ trong Cơ chế Ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP), là cơ chế ưu đãi đơn phương mà EU dành cho các nước kém và đang phát triển (trong đó có Việt Nam). Tuy nhiên, so với các Hiệp định mà Việt Nam tham gia cùng ASEAN, CPTPP hoặc các Hiệp định song phương khác, quy tắc xuất xứ EVFTA có nhiều điểm mới hơn hẳn về cách xác định xuất xứ, cách diễn đạt tiêu chí xuất xứ, cơ chế chứng nhận xuất xứ và cơ chế xác minh xuất xứ.
- Quy tắc xuất xứ được quy định tại Nghị định thư số 1 về Xuất xứ hàng hóa đính kèm Hiệp định EVFTA và đã được nội luật hóa tại Thông tư số 11/2020/TT-BCT ngày 15 tháng 6 năm 2020 của Bộ Công Thương quy định Quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định EVFTA. Ngoài những quy định tương tự quy tắc xuất xứ hàng hóa tại các FTA mà Việt Nam là thành viên liên quan đến tiêu chí xuất xứ thuần túy và không thuần túy, quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định EVFTA tương đối phức tạp và có một số điểm cần lưu ý sau:
Quy định hàng hóa được coi là có xuất xứ
- Xét về quy trình sản xuất và nguyên liệu chế biến thì WTO và các hiệp định quy định hàng hóa có xuất xứ được phân chia thành các cấp độ như sau:
- Một là hàng hóa có xuất xứ thuần túy (WO): Cấp độ này chủ yếu áp dụng với hàng nông sản cơ bản được trồng, thu hoạch, chăn nuôi, sản xuất hoàn toàn tại lãnh thổ một bên tham gia Hiệp định. Ví dụ: cây cà phê được trồng và thu hoạch tại Việt Nam thì hạt cà phê có xuất xứ thuần túy Việt Nam.
- Hai là hàng hóa có xuất xứ nhưng không thuần túy: Cấp độ này áp dụng với hàng nông sản chế biến và hàng công nghiệp gia công từ nguồn nguyên liệu có xuất xứ và nguyên liệu không có xuất xứ. Ví dụ: nước ép chanh dây được làm từ quả chanh dây Việt Nam và đường, chất bảo quản, các thành phần khác nhập khẩu từ Thái Vậy, nước ép chanh dây được gọi là có xuất xứ Việt Nam nhưng không thuần túy.
Trong cấp độ xuất xứ không thuần túy, cũng có trường hợp hàng hóa được làm từ nguyên liệu hoàn toàn không có xuất xứ. Ví dụ: kẹo chocolate có xuất xứ Bỉ được làm từ nguyên liệu cacao nhập khẩu từ châu Phi. Bỉ được coi là nước xuất xứ của kẹo chocolate khi tại đó, cacao được chế biến, làm chuyển đổi cơ bản về bản chất hàng hóa từ một loại quả hạt thành một loại bánh kẹo. Sau khi cacao nguyên liệu trải qua công đoạn chế biến đầy đủ, làm chuyển đổi bản chất hàng hóa, chocolate được coi là có xuất xứ của Bỉ nhưng không thuần túy.
Tương tự WTO và nhiều Hiệp định khác, EVFTA quy định hàng hóa được coi là có xuất xứ khi: (1) Hàng hóa có xuất xứ thuần túy tại một Nước thành viên; và (2) Hàng hóa có xuất xứ không thuần túy được tạo ra tại một Nước thành viên từ nguyên liệu không có xuất xứ với điều kiện nguyên iệu đó phải trải qua các công đoạn gia công, chế biến đầy đủ hay còn gọi là công đoạn gia công, chế biến cơ bản.
Hàng hóa có xuất xứ thuần túy EVFTA được áp dụng
- Hàng hóa có xuất xứ thuần túy chủ yếu là nông sản cơ bản như cây trồng, rau củ, hoa quả, lợn gà, trứng, sữa, mật ong, v. Các sản phẩm này được trồng, thu hoạch, hái lượm, chăn nuôi, khai thác hoàn toàn tại nước thành viên. Ví dụ: giống xoài Đài Loan được trồng tại Việt Nam thì quả xoài thu hoạch từ cây xoài trồng trên đất Việt Nam sẽ có xuất xứ thuần túy Việt Nam.
- EVFTA quy định mặt hàng thủy sản vẫn được coi là có xuất xứ thuần túy khi cá, động vật giáp xác, động vật thân mềm được sinh ra hoặc nuôi dưỡng tại nước thành viên. Tại một số Hiệp định khác, thủy sản được coi là có xuất xứ thuần túy khi được sinh ra và nuôi dưỡng tại nước thành viên. Như vậy, ở đây có sự khác biệt giữa EVFTA và Hiệp định khác ở quy định “sinh ra hoặc nuôi dưỡng” với quy định “sinh ra và nuôi dưỡng tại nước thành viên”. Ví dụ: trứng cá tầm nhập khẩu từ Nga, không có xuất xứ Việt Nam, sau đó được ấp nở rồi nuôi dưỡng tại Việt Nam thì cá tầm có xuất xứ thuần túy Việt Nam.
- Đối với mặt hàng thủy sản khai thác, EVFTA còn quy định về đội tàu đánh bắt trong đó có yêu cầu cụ thể về việc đăng ký tàu, treo cờ tàu và chủ sở hữu tàu khai thác thủy sản. Ví dụ: cá ngừ đại dương khai thác ngoài vùng lãnh hải bởi tàu cá Việt Nam thì được coi là có xuất xứ thuần túy Việt Nam.
Hàng hóa có xuất xứ không thuần túy được xác định theo các tiêu chí chủ yếu
(i) Tiêu chí chuyển đổi cơ bản
Tiêu chí chuyển đổi cơ bản hoặc đôi khi còn gọi là tiêu chí chuyển đổi mã số hàng hóa (CTC) có ví dụ áp dụng như sau: Cây lúa có mã số phân loại hàng hóa hay còn gọi là mã số HS thuộc chương 07, sau khi thu hoạch thì sản phẩm của cây lúa là hạt gạo có mã HS thuộc chương 10. Gạo được sử dụng để làm thành bún có mã HS tại chương 19. Như vậy, nguyên liệu đầu vào và sản phẩm đầu ra đã thay đổi cơ bản về bản chất hàng hóa, đã có sự chuyển đổi từ cây lúa thành hạt gạo rồi thành sợi bún. Mã số HS của nguyên liệu đầu vào là 07 cũng khác mã số HS của sản phẩm đầu ra là 19. Trong trường hợp này, quốc gia diễn ra quá trình chế biến làm thay đổi bản chất hàng hóa thì được gọi là nước xuất xứ của hàng hóa.
(ii) Tiêu chí hạn mức nguyên liệu không có xuất xứ
Đây là điểm khác biệt về tư duy xác định xuất xứ của EVFTA so với các FTA khác khi EVFTA xem xét hạn mức lượng nguyên liệu không có xuất xứ tối đa được sử dụng. Trong khi đó, các FTA khác xác định xuất xứ hàng hóa dựa trên tổng hàm lượng giá trị được tạo ra trong khối. Cơ sở để xác định hạn mức trong EVFTA dựa trên giá xuất xưởng còn hầu hết các Hiệp định khác xác định hàm lượng dựa trên giá FOB.
(iii) Tiêu chí công đoạn gia công, chế biến cụ thể
Tiêu chí công đoạn gia công, chế biến cụ thể hay quy trình sản xuất cụ thể (SP) tại EVFTA quy định nguyên liệu không có xuất xứ phải trải qua một quá trình sản xuất, gia công hoặc chế biến cụ thể tại một nước thành viên của EVFTA. Nếu một sản phẩm A có tiêu chí WO; sản phẩm B có tiêu chí tỷ lệ phần trăm giá trị (LV); sản phẩm C có tiêu chí CTC, sản phẩm D có tiêu chí “LV hoặc CTC” thì sản phẩm E có quy trình sản xuất cụ thể sẽ không phải là một tiêu chí đơn lẻ nào trong bất cứ tiêu chí của A, B, C hoặc D mà sẽ là một quy trình sản xuất được mô tả trong quy định cụ thể, hoặc là quy trình sản xuất cụ thể kết hợp với một vài các tiêu chí được liệt kê ở trên. Ưu điểm Của tiêu chí này là “không thay đổi”, nếu tuân theo cùng một quy trình sản xuất thì hàng hoá đạt chuẩn sẽ luôn tiếp tục có xuất xứ mà không phụ thuộc vào chi phí nguyên liệu, nhân công và các yếu tố đầu vào khác (như khi áp dụng LV); cũng không bị ảnh hưởng do thay đổi nguồn cung nguyên liệu (là yếu tố có thể tác động tới tiêu chí CTC).
- Các quy định liên quan về xuất xứ EVFTA
Cộng gộp mở rộng
Tại Điều 3 Hiệp định EVFTA, cộng gộp mở rộng được phép áp dụng đối với (1) một số thủy sản có xuất xứ từ nước ASEAN là đối tác FTA của EU và (2) vải có xuất xứ Hàn Quốc với điều kiện Việt Nam, ASEAN và Hàn Quốc có thư thông báo tới EU về việc áp dụng nguyên tắc cộng gộp mở rộng và đảm bảo hợp tác hành chính trong trường hợp xác minh xuất xứ.
- Đối với mặt hàng thủy sản: cho phép nuôi trồng một số thủy sản từ con giống nhập khẩu (cá tầm, cá hồi) và linh hoạt nguyên liệu mực và bạch tuộc chế biến của Việt Nam được phép sử dụng nguyên liệu có xuất xứ ASEAN là đối tác FTA của EU.
- Đối với mặt hàng dệt may: được phép sử dụng vải có xuất xứ Hàn Quốc. EVFTA cho phép vải nguyên liệu của Hàn Quốc được coi như vải có xuất xứ để sản xuất hàng dệt may do Hàn Quốc vừa có FTA với EU và vừa có FTA với Việt Nam. Để thực hiện nguyên tắc cộng gộp này, Việt Nam, Hàn Quốc và EU cần thống nhất một số nội dung kỹ thuật và cơ chế xác minh xuất xứ của vải nguyên liệu. Ngày 11 tháng 12 năm 2020, Việt Nam và Hàn Quốc đã ký thư Thư trao đổi giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Hàn Quốc để triển khai điều khoản cộng gộp xuất xứ nguyên liệu dệt may giữa hai bên trong Hiệp định EVFTA.
Hàng hóa được quá cảnh và chia nhỏ tại nước thứ ba không thuộc lãnh thổ Hiệp định
- EVFTA cho phép hàng hóa được chia nhỏ lô tại nước thứ ba nằm ngoài Hiệp định và vẫn được coi là không thay đổi xuất xứ khi có một số chứng từ chứng Trong trường hợp này, cơ quan hải quan nước nhập khẩu có thể yêu cầu nhà nhập khẩu xuất trình chứng từ chứng minh hàng hóa nằm trong sự kiểm soát của hải quan nước thứ ba và không bị thay đổi xuất xứ cụ thể:
- Chứng từ vận tải như vận đơn, chứng từ về việc đánh dấu, đánh số hàng hóa;
- Chứng từ chứng minh hàng hóa như hóa đơn thương mại, hợp đồng mua bán;
- Chứng nhận của hải quan nước thứ ba về việc hàng hóa không bị thay đổi hoặc chứng từ khác chứng minh hàng hóa vẫn nằm trong sự kiểm soát của hải quan nước quá cảnh hoặc chia nhỏ lô hàng…
Đây có thể coi là quy định chưa từng có tiền lệ trong các FTA trước đó của Việt Nam. Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Chi-lê cũng có quy định gần tương tự nhưng đến nay hầu như chưa được áp dụng.
Tỷ lệ nguyên liệu không đáp ứng tiêu chí xuất xứ
EVFTA cho phép sử dụng nguyên liệu không đáp ứng tiêu chí xuất xứ hay còn được gọi theo thuật ngữ là “Tolerance” hoặc “De minimis”. Linh hoạt này được hiểu là hạn mức nguyên liệu rất nhỏ dù không đáp ứng tiêu chí xuất xứ nhưng EVFTA vẫn cho phép sử dụng và hàng hóa vẫn được coi là có xuất xứ. Mức linh hoạt này áp dụng với các mặt hàng như sau:
- Với hàng nông nghiệp (trừ chương 01, chương 03 và chương 16): các mặt hàng nông nghiệp còn lại được phép sử dụng 10% nguyên liệu không đáp ứng xuất xứ tính theo trọng lượng hoặc giá xuất xưởng;
- Với hàng công nghiệp, tỷ lệ này là 10% tính theo giá xuất xưởng;
- Hàng dệt may cho phép tỷ lệ từ 8-10% hoặc thậm chí vải kỹ thuật cao được linh hoạt lên đến 20-30% theo quy định tại chú giải của Phụ lục 1 ban hành kèm theo Thông tư số 11/2020/TT-BCT của Bộ Công Thương.
Gia công đơn giản
Hiệp định EVFTA quy định cụ thể từng hành vi được coi là gia công đơn giản. “Công đoạn gia công chế biến đơn giản” là các công đoạn dù được thực hiện độc lập hoặc kết hợp với nhau cũng sẽ được coi là “không đủ điều kiện” đáp ứng quy tắc xuất xứ. EVFTA có quy định riêng về danh mục các “công đoạn gia công chế biến đơn giản” mà hàng hóa nếu rơi vào một trong các công đoạn này sẽ không được xét xuất xứ. Điểm này khác với hầu hết các hiệp định còn lại chỉ quy định theo hướng đưa ra nguyên tắc chung như: các công đoạn thuộc về bảo quản hàng hóa trong quá trình vận chuyển (bốc dỡ hàng, xếp hàng, đóng gói hàng hóa). Quy định mang tính chung nhất có thể đảm bảo mọi hành vi liên quan nếu có những đặc điểm như quy định sẽ được loại trừ, không tính đến khi xác định xuất xứ hàng hóa, tránh bỏ sót những hành vi sẽ phát sinh trên thực tế sau này.
- Cơ chế chứng nhận xuất xứ hàng hóa
Để được hưởng ưu đãi thuế quan EVFTA, hàng hóa cần đáp ứng quy tắc xuất xứ của Hiệp định và có chứng từ chứng nhận xuất xứ. Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) là một trong những chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa. Nếu hàng hóa không có chứng từ chứng nhận xuất xứ, thuế quan ưu đãi của Hiệp định bị vô hiệu hóa.
Đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam
Việt Nam áp dụng cơ chế C/O do cơ quan, tổ chức được Bộ Công Thương ủy quyền cấp. Việt Nam và EU nhất trí sử dụng mẫu C/O EUR 1 trong Hiệp định EVFTA. Mẫu EUR 1 yêu cầu thông tin khai báo đơn giản hơn so với mẫu C/O trong Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) và các FTA giữa ASEAN với các đối tác ngoại khối mà Việt Nam đã ký kết. Một số thông tin nhà xuất khẩu được phép lựa chọn khai báo hoặc không khai báo như nhà nhập khẩu, hành trình lô hàng, số hóa đơn thương mại. Về nội dung khai báo, hai bên thống nhất không yêu cầu thể hiện tiêu chí xuất xứ, mã số HS của hàng hóa trên C/O.
Bên cạnh hình thức cấp C/O giấy, các tổ chức cấp triển khai song song hình thức cấp C/O qua mạng Internet. Thương nhân chọn cách khai báo và nộp chứng từ điện tử tại địa chỉ www.ecosys.gov.vn (Hệ thống quản lý và cấp chứng nhận xuất xứ điện tử của Bộ Công Thương) mà không phải đến trụ sở của tổ chức cấp C/O để nộp hồ sơ giấy. Thời gian trả kết quả cấp C/O qua mạng Internet tính từ thời điểm nhận hồ sơ đề nghị cấp C/O đã duyệt trên mạng là 3 giờ làm việc, ngắn hơn so với thời gian trả kết quả cấp C/O giấy theo quy định hiện hành là 6 giờ làm việc nếu thương nhân nộp trực tiếp tại trụ sở của tổ chức cấp C/O và 8 giờ làm việc nếu thương nhân gửi qua bưu điện.
Danh mục cơ quan, tổ chức cấp C/O mẫu EUR.1 của Việt Nam được cập nhật tại địa chỉ www.ecosys.gov.vn. Cơ quan, tổ chức cấp C/O mẫu EUR.1 của Việt Nam đăng ký mẫu con dấu và cập nhật các mẫu con dấu này theo hướng dẫn của Bộ Công Thương. Quy trình chứng nhận và kiểm tra xuất xứ hàng hóa thực hiện theo quy định tại Nghị định số 31/2018/ NĐ-CP ngày 08 tháng 3 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Quản lý ngoại thương về xuất xứ hàng hóa, các quy định của pháp luật về xuất xứ hàng hóa và quy định tại Thông tư số 11/2020/TT-BCT của Bộ Công Thương.
Với lô hàng có trị giá từ 6.000 EURO trở xuống, cơ chế tự khai báo xuất xứ cho phép nhà sản xuất, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu tự khai báo, tự chế Tự chứng nhận xuất xứ do nhà sản xuất, xuất khẩu muốn trở thành nhà xuất khẩu được ủy quyền tự chứng nhận xuất xứ phải đáp ứng một số điều kiện nhất định. EVFTA quy định “Nhà xuất khẩu” là cá nhân, tổ chức có trụ sở đặt tại Nước thành viên xuất khẩu, xuất khẩu hàng hóa sang Nước thành viên khác, có khả năng chứng minh được xuất xứ của hàng hóa. Nhà xuất khẩu có thể là nhà sản xuất hoặc người thực hiện thủ tục xuất khẩu. Nhà xuất khẩu không nhất thiết là người bán hàng mà phát hành hóa đơn cho lô hàng (hóa đơn bên thứ ba). Người bán hàng được phép đặt trụ sở tại lãnh thổ của nước không phải thành viên EVFTA.
Đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam
Với lô hàng có trị giá từ 6.000 EURO trở xuống, bất kỳ nhà xuất khẩu nào cũng được phép tự chứng nhận xuất xứ (tương tự quy định GSP hiện hành). Với lô hàng có trị giá trên 6.000 EURO, chỉ có nhà xuất khẩu đủ điều kiện mới được tự chứng nhận xuất xứ.
Theo cơ chế tự chứng nhận xuất xứ của EU, các doanh nghiệp được EU cấp mã số ủy quyền (authorisation number) sẽ được phép tự chứng nhận xuất xứ cho hàng hóa xuất khẩu. Để được cấp mã số ủy quyền tự chứng nhận xuất xứ doanh nghiệp xuất khẩu phải đáp ứng một số quy định tương đối chặt và cơ quan hải quan thường xuyên kiểm tra điều kiện.
Nhà xuất khẩu thực hiện tự chứng nhận xuất xứ trên một chứng từ thương mại (ví dụ: hóa đơn thương mại, phiếu đóng gói, phiếu giao hàng). Trong trường hợp nhà xuất khẩu đủ điều kiện có đăng ký với cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu về việc chịu hoàn toàn trách nhiệm với chứng từ tự chứng nhận xuất xứ thì không phải ký tên trên chứng từ đó, chứng từ tự chứng nhận xuất xứ không phải thể hiện tiêu chí xuất xứ và mã HS hàng hóa nhưng phải có chữ ký của nhà xuất khẩu. Trong trường hợp nhà xuất khẩu đủ điều kiện có đăng ký với cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu về việc chịu hoàn toàn trách nhiệm với chứng từ tự chứng nhận xuất xứ do họ phát hành thì không phải ký tên trên chứng từ đó.
- Quy tắc xuất xứ cụ thể mặt hàng (PSR)
Đối với mặt hàng nông nghiệp
EVFTA quy định tiêu chí xác định xuất xứ một số mặt hàng nông sản là tiêu chí chuyển đổi cơ bản kèm theo điều kiện nguyên liệu bột, đường, trứng sữa, thịt, cá không có xuất xứ chỉ được sử dụng với hạn mức nhất định. Hạn mức tỷ lệ không có xuất xứ là 20% từng nguyên liệu đường, sữa đơn lẻ và 40% nguyên liệu kết hợp so với trọng lượng của sản phẩm cuối cùng. Với một số mặt hàng, PSR thể hiện tỷ lệ linh hoạt 40% đường nguyên liệu không xuất xứ và tỷ lệ kết hợp đường, sữa là 50%.
Nhìn chung, quy tắc xuất xứ đối với hàng nông nghiệp trong EVFTA tương đối chặt hơn so với các FTA khác của Việt Nam.
Đối với mặt hàng công nghiệp
Tiêu chí xuất xứ chủ yếu gồm: (i) giới hạn tỷ lệ nguyên vật liệu không xuất xứ; (ii) chuyển đổi mã số hàng hóa và (iii) công đoạn gia công, sản xuất cụ thể. Trong đó, hàm lượng nguyên vật liệu không có xuất xứ được tính dựa trên giá xuất xưởng (giá ex-work) và tỷ lệ áp dụng phổ biến là 70% (tương đương với Hàm lượng giá trị khu vực RVC 40% tính trên giá FOB trong các FTA khác của Việt Nam).
EVFTA không có tiêu chí xác định xuất xứ theo tỷ lệ hàm lượng giá trị gia tăng trong khu vực mà xác định theo hạn mức giá trị nguyên liệu không có xuất xứ được phép nhập khẩu để gia công, chế biến thành sản phẩm có xuất xứ.
Đối với mặt hàng dệt may, tiêu chí xuất xứ “từ vải trở đi” trong EVFTA nghĩa là công đoạn sản xuất vải và công đoạn cắt may đều phải thực hiện tại các nước thành viên. Đây là thách thức đối với doanh nghiệp dệt may Việt Nam do ngành dệt may hiện nay vẫn phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu từ những nước ngoài EU. Chính vì vậy, quy định cộng gộp xuất xứ vải nguyên liệu từ Hàn Quốc có thể xem là điểm tựa lớn để giải bài toán thiếu hụt vải và là quy tắc linh hoạt cho mặt hàng dệt may.
- Các quy định và thủ tục hải quan
EVFTA áp dụng một cách tiếp cận về thủ tục hải quan và kiểm soát biên giới theo hướng hiện đại và đạt các chuẩn mực quốc tế trong hoạt động thương mại qua biên giới. Hướng tới sự minh bạch và ổn định pháp lý cho doanh nghiệp, Hiệp định quy định:
- Phải đăng tải công khai trên trang tin điện tử chính thức luật, quy định, các thủ tục hành chính và mức phí áp dụng liên quan tới hải quan và hoạt động xuất nhập khẩu;
- Có các đầu mối liên hệ để trả lời câu hỏi của doanh nghiệp và các bên liên quan;
- Các khoản phí và lệ phí chỉ thu ở mức tương ứng với các dịch vụ cung cấp, không vượt quá chi phí cung cấp dịch vụ, không tính theo giá trị hàng hóa.
- Giải phóng hàng hóa
Mỗi Bên phải đảm bảo rằng cơ quan hải quan của Bên đó phải áp dụng các yêu cầu và thủ tục quy định đối với việc giải phóng hàng hóa trong một khoảng thời gian không dài hơn thời gian quy định để đảm bảo việc tuân thủ luật pháp và các thủ tục liên quan tới hải quan và thương mại. Mỗi Bên phải hướng tới việc tiếp tục giảm thời gian giải phóng hàng nêu trên và thực hiện giải phóng hàng hóa mà không chậm trễ quá mức.
Các Bên, ngoài những việc khác, sẽ cho phép việc giải phóng hàng hóa mà không phải nộp thuế quan, với điều kiện nộp một khoản đảm bảo nếu được yêu cầu phù hợp với quy định pháp luật của các Bên nhằm đảm bảo việc nộp thuế quan sau đó.
Mỗi Bên phải đảm bảo các cơ quan hải quan của Bên đó cung cấp thông tin điện tử trước và sau đó là xử lý thông tin trước khi hàng thực tế đến (xử lý trước khi hàng đến) để cho phép giải phóng hàng ngay khi đến.
- Xác định trước
Phù hợp với luật và quy định của mỗi Bên, theo yêu cầu bằng văn bản của các doanh nghiệp, các cơ quan hải quan của mỗi Bên phải ban hành văn bản xác định trước về phân loại thuế hoặc về bất cứ vấn đề nào mà các Bên có thể đồng ý, trước khi hàng nhập khẩu vào lãnh thổ của mình.
Trên cơ sở tuân thủ các yêu cầu bảo mật theo quy định pháp luật của mỗi Bên, các Bên phải công bố các kết quả xác định trước về phân loại thuế và bất kỳ vấn đề nào mà các Bên có thể đồng ý, ví dụ như trên trang mạng chính thức.
Để tạo thuận lợi thương mại, các Bên phải thường xuyên cập nhật các quy định pháp luật về xác định trước của mình tại chương trình đối thoại song phương.
- EVFTA và hàng rào kỹ thuật
Với mục tiêu tạo thuận lợi và tăng cường thương mại song phương bằng cách ngăn chặn và giảm thiểu các hàng rào kỹ thuật không cần thiết đối với thương mại, đồng thời tăng cường hợp tác, Chương Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT) bao gồm các quy định cơ bản liên quan đến tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy trình đánh giá sự phù hợp, hợp tác, tham vấn v.v., tương tự Hiệp định TBT của WTO và các FTA khác. Tuy nhiên, Chương này cũng đặt ra một số ngoại lệ về quy định kỹ thuật của việc mua sắm do cơ quan của Chính phủ xây dựng để phục vụ yêu cầu sản xuất, tiêu dùng của cơ quan đó hoặc các biện pháp SPS được quy định tại Phụ lục A (Định nghĩa) của Hiệp định SPS của WTO. Hiệp định SPS quy định rằng, Hiệp định này sẽ không ảnh hưởng đến quyền của các Thành viên WTO theo Hiệp TBT liên quan đến các biện pháp không thuộc phạm vi của Hiệp định SPS.
Ngoài ra, Chương TBT còn bao gồm các điều khoản mới (chưa có trong các FTA khác) như hậu kiểm, đánh dấu và ghi nhãn (với Hiệp định CPTPP, những sản phẩm có Phụ lục riêng thì cũng có quy định về ghi nhãn đối với sản phẩm đó, ví dụ dược phẩm và thiết bị y tế, sản phẩm hữu cơ… nhưng Hiệp định CPTPP không có quy định về việc ghi nhãn sản phẩm nói chung). Chương này cũng tích hợp hoặc dẫn chiếu đến nội dung của Hiệp định TBT của WTO kèm theo những sửa đổi thích hợp.
- Quy chuẩn kỹ thuật
Hai bên cam kết sẽ áp dụng tối đa thực hành quản lý tốt, cụ thể là đánh giá các phương án quản lý và không quản lý trong các quy chuẩn kỹ thuật trên cơ sở các mục tiêu hợp pháp mà hai bên theo đuổi; áp dụng tiêu chuẩn quốc tế như ISO, IEC, ITU và Codex khi xây dựng quy chuẩn kỹ thuật, trừ khi các tiêu chuẩn quốc tế này không phù hợp hoặc không hiệu quả để thực hiện mục tiêu hợp pháp mà hai bên theo đuổi.
Cụ thể, Chương này quy định hai bên tận dụng những thông lệ tốt theo Hiệp định TBT khi đưa ra bất kỳ một quy chuẩn kỹ thuật nào, ba gồm các yếu tố là:
- Tính toán đến những phương án thay thế vừa đảm bảo phù hợp với mục tiêu quản lý hợp pháp của mình, vừa phù hợp với quy định tại Điều 2.2 của Hiệp định TBT của Điều này có nghĩa là các quy chuẩn này không được xây dựng với mục đích gây ra những cản trở không cần thiết đối với thương mại quốc tế trong quá trình chính phủ thực hiện những mục tiêu hợp pháp là: các yêu cầu về an ninh quốc gia, ngăn ngừa hoạt động gian lận, bảo vệ sức khỏe và an toàn của con người, động thực vật hoặc môi trường.
- Sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan, chẳng hạn như những tiêu chuẩn được xây dựng bởi Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế, Uỷ ban kỹ thuật điện quốc tế, Uỷ ban viễn thông quốc tế, Ủy ban Codex để làm cơ sở cho các quy chuẩn kỹ thuật của mình, trừ khi những tiêu chuẩn quốc tế này không hiệu quả hoặc không phù hợp để thực hiện các mục tiêu hợp pháp của mình. Trong trường hợp không sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế làm cơ sở, mà bên kia yêu cầu giải thích thì phải chỉ rõ những điều chỉnh khác với các tiêu chuẩn quốc tế, và phải giải thích lý do tại sao các tiêu chuẩn đó lại được xem là không phù hợp hoặc không hiệu quả với mục đích mà mình đang theo đuổi. Đây là một nội dung mới so với các cam kết của Hiệp định TBT của WTO.
- Phải rà soát các quy chuẩn nhằm đảm bảo các quy chuẩn này phù hợp tối đa với các tiêu chuẩn quốc tế liên quan, trong quá trình này phải tính đến cả những điểm mới được bổ sung trong các tiêu chuẩn quốc tế để đảm bảo phù hợp cả với những điểm mới này.
- Phải quy định quy chuẩn kỹ thuật dựa trên đặc tính vận hành của sản phẩm thay vì dựa trên thiết kế hoặc đặc điểm mô tả.
Theo Chương này, hai bên cũng cam kết xem xét công nhận tương đương quy chuẩn kỹ thuật của nhau, mỗi bên cũng có thể gửi yêu cầu bằng văn bản cho Bên kia về việc thừa nhận tương đương đối với quy chuẩn kỹ thuật mà tương thích về phạm vi áp dụng và mục tiêu. Trong văn bản trả lời, nếu bên kia từ chối thì phải nêu lý do về việc từ chối công nhận.
- Tiêu chuẩn kỹ thuật
Hai bên khẳng định lại quyết định của Ủy ban TBT của WTO về các nguyên tắc xây dựng tiêu chuẩn, hướng dẫn hoặc khuyến nghị quốc tế và khuyến khích hai bên tham gia tích cực vào các tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế và khu vực.
Cụ thể, hai bên khuyến khích các cơ quan về tiêu chuẩn hóa của mình: (i) tham gia vào việc xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế của các tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế; (ii) sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan làm cơ sở cho các tiêu chuẩn đang được xây dựng, chỉ trừ trường hợp không phù hợp với đặc thù của bên mình như yếu tố khí hậu, địa lý, vấn đề thiếu hụt công nghệ; (iii) tránh trùng lặp, hoặc chồng chéo với công việc của tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế; (iv) rà soát các tiêu chuẩn của quốc gia và khu vực mà chưa phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế nhằm làm tăng cường tính phù hợp giữa các tiêu chuẩn này với nhau; (v) tăng cường hợp tác giữa các cơ quan tiêu chuẩn hoá liên quan của nhau.
Hai Bên cũng cam kết tăng cường trao đổi thông tin song phương về việc sử dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật trong việc hỗ trợ áp dụng các quy chuẩn kỹ thuật; quy trình nội bộ về tiêu chuẩn hóa; mức độ sử dụng tiêu chuẩn quốc tế.
Một điểm đáng chú ý là, Chương này quy định việc thừa nhận các tiêu chuẩn kỹ thuật là áp dụng theo cơ chế tự nguyện. Nếu một Bên lựa chọn áp dụng các tiêu chuẩn như là điều kiện bắt buộc thông qua việc gắn hoặc dẫn chiếu trong các quy chuẩn kỹ thuật hoặc quy trình đánh giá sự phù hợp thì phải thực hiện các nghĩa vụ về minh bạch hóa.
- Thủ tục đánh giá sự phù hợp
Hai Bên thừa nhận nhiều cơ chế hiện có nhằm tạo thuận lợi cho việc chấp nhận kết quả đánh giá sự phù hợp được thực hiện tại lãnh thổ của Bên kia.
Một điểm lưu ý khác trong nội dung về quy trình đánh giá sự phù hợp là phí đánh giá tính phù hợp mà bắt buộc áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu, phí này phải được tính công bằng với tất cả các sản phẩm tương tự của trong nước hoặc của nước khác. Có nghĩa là mức phí này phải được áp dụng trên cơ sở không phân biệt đối xử, tuy nhiên không có nghĩa là mức phí là hoàn toàn giống nhau cho một loại hàng hóa dù là trong nước hay hàng nhập khẩu vì còn phải tính đến chi phí thông tin liên lạc, phí vận chuyển, phí phát sinh khác do sự khác biệt về địa điểm của người nộp đơn và tổ chức đánh giá sự phù hợp.
- Minh bạch hóa
Hai Bên cam kết đảm bảo công khai minh bạch và cung cấp miễn phí các quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp đã ban hành hoặc có hiệu lực trên các trang thông tin điện tử của hai bên. Cụ thể, phải đảm bảo:
- Cân nhắc ý kiến góp ý của bên kia trong quá trình xây dựng quy chuẩn kỹ thuật nếu quá trình này được công khai lấy ý kiến công chúng;
- Cho phép những đối tượng quan tâm của Bên kia tham gia tham vấn công khai trong quá trình xây dựng quy chuẩn kỹ thuật;
- Khi thực hiện nghĩa vụ thông báo theo Hiệp định TBT thì phải cho phép trong khoảng thời gian tối thiểu 60 ngày để Bên kia góp ý bằng văn bản đối với dự thảo quy chuẩn kỹ thuật, cung cấp cho Bên kia bản điện tử của thông báo, phải trả lời bằng văn bản đối với góp ý của Bên kia về dự thảo của quy chuẩn, cung cấp cho Bên kia thông tin về việc ban hành, hiệu lực và nội dung văn bản chính thức được ban hành;
- Phải cho phép đủ thời gian kể từ lúc ban hành quy chuẩn đến thời điểm có hiệu lực để các bên liên quan có điều kiện thích ứng với quy định mới này. Tuy nhiên cũng có trường hợp ngoại lệ là các quy chuẩn mới được ban hành để giải quyết các vấn đề khẩn cấp về an toàn, sức khỏe, bảo vệ môi trường, hoặc vấn đề an ninh quốc gia.
- Đánh dấu và ghi nhãn sản phẩm
Hai Bên cam kết không yêu cầu việc đăng ký, phê duyệt hoặc chứng nhận trước đối với nhãn hoặc dấu sản phẩm và coi đây là điều kiện để cho phép đưa sản phẩm vào lưu thông trên thị trường trong khi sản phẩm đã phù hợp với các yêu cầu kỹ thuật bắt buộc, trừ khi có nguy hại tới đời sống hoặc sức khỏe của con người, vật nuôi hoặc cây trồng, môi trường hoặc an toàn quốc gia.
Trong trường hợp bên nào yêu cầu doanh nghiệp phải có mã nhận dạng duy nhất thì bên đó phải cấp mã cho doanh nghiệp một cách kịp thời và trên cơ sở không phân biệt đối xử.
Các bên cũng cam kết chấp nhận việc ghi nhãn, bao gồm cả nhãn bổ sung/sửa đổi đối với nhãn được thực hiện tại các cơ sở được cấp phép (ví dụ: tại hải quan hoặc kho ngoại quan được cấp phép tại điểm nhập khẩu) ở nước nhập khẩu trước khi phân phối hoặc bán sản phẩm. Hiệp định cũng có quy định về việc các bên phải nỗ lực để chấp nhận dán nhãn không cố định hoặc nhãn rời, hoặc đánh dấu hoặc ghi nhãn nộp cùng hồ sơ đi kèm mà không phải gắn cơ học lên sản phẩm.
- Giám sát thị trường thực thi
Hai Bên cam kết không có xung đột lợi ích giữa các cơ quan hậu kiểm và doanh nghiệp, đảm bảo hoạt động hậu kiểm do cơ quan có thẩm quyền thực thi và không có xung đột lợi ích giữa chức năng hậu kiểm và chức năng đánh giá sự phù hợp của các cơ quan này.
- Biện pháp vệ sinh kiểm dịch động vật thực vật
Về tổng thể, các điều khoản của Chương SPS trong EVFTA được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc của Hiệp định SPS của WTO và các tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị của các tổ chức xây dựng tiêu chuẩn quốc tế. Các cam kết có thể chia thành 2 nhóm là các điều khoản cơ bản và các điều khoản tạo thuận lợi thương mại.
Nhóm các điều khoản cơ bản bao gồm: Phạm vi áp dụng, Mục tiêu, Định nghĩa, Cơ quan chức năng, v.v. với nội dung khẳng định các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên theo Hiệp định SPS của WTO. Việt Nam và EU cam kết sẽ áp dụng các nguyên tắc của WTO trong xây dựng, áp dụng hoặc công nhận bất kỳ một biện pháp SPS nào.
Nhóm các điều khoản tạo thuận lợi cho thương mại hai bên bao gồm: Danh sách doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu, công nhận tương đương, và quy định linh hoạt đối với biện pháp SPS của EU dành cho Việt Nam, cụ thể như sau:
- Danh sách các doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu về SPS
EVFTA cho phép mỗi bên thiết lập Danh sách các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông thủy sản, thực phẩm đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm để gửi cho bên kia. Danh sách này gồm tên các doanh nghiệp kèm theo mã số tương ứng với mặt hàng xuất khẩu do cơ quan quản lý nhà nước cấp. Những doanh nghiệp Việt Nam có tên trong Danh sách này sẽ được xuất khẩu hàng hóa tương ứng với mã số được cấp sang thị trường EU mà không phải qua khâu thanh tra doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp có thể bị đưa ra khỏi Danh sách nếu cơ quan quản lý của EU phát hiện quy trình nuôi trồng, chế biến, đóng gói, v.v. không đáp ứng quy định kiểm dịch trong các cuộc thanh tra định kỳ.
- Công nhận tương đương
Trong các Hiệp định FTA, các bên thỏa thuận thủ tục công nhận tương đương đối với các biện pháp SPS do mỗi bên áp dụng nhằm giảm bớt rào cản về kiểm dịch đối với hàng nông thủy sản, thực phẩm xuất khẩu từ bên này sang bên kia. Theo thủ tục này, bên nhập khẩu sẽ công nhận các biện pháp SPS của bên xuất khẩu là có hiệu quả tương đương với biện pháp SPS của nước mình nếu bên xuất khẩu chứng minh được các biện pháp SPS của mình đạt được mức độ bảo vệ sức khỏe con người, động vật, thực vật tương đương với biện pháp SPS của nước nhập khẩu.
Trong khi một số FTA không quy định thời hạn xem xét công nhận tương đương, để tạo thuận lợi cho việc xuất nhập khẩu nông, thủy sản và thực phẩm cho doanh nghiệp hai bên, EVFTA quy định rút ngắn thời hạn xem xét công nhận tương đương là 3 tháng so với quy định của WTO (6 tháng) kể từ lúc nhận được đề nghị. Đối với nội dung cụ thể, Hiệp định cho phép các nguyên tắc tương đương có thể được chấp nhận đối với một hoặc nhiều biện pháp SPS, cho một hoặc một nhóm các hàng hóa nhất định, đặc biệt hơn là có thể áp dụng cho cả hệ thống.
- Một số quy định linh hoạt đối với biện pháp SPS do EU ban hành đối với Việt Nam
WTO cho phép các thành viên ban hành các biện pháp SPS với tiêu chuẩn cao nhằm bảo vệ sức khỏe con người và động, thực vật miễn là dựa trên cơ sở khoa học (không nhằm mục đích bảo hộ). Với các nước đang phát triển như Việt Nam, việc đáp ứng các tiêu chuẩn cao ở các nước có trình độ phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản để hàng hóa có thể vào được các thị trường này là tương đối khó khăn.
Để tạo thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường EU, EVFTA quy định Việt Nam được chọn 1 trong 3 giải pháp sau nếu gặp khó khăn trong việc đáp ứng một biện pháp SPS của EU:
- EU dành cho Việt Nam một khoảng thời gian quá độ để tuân thủ biện pháp này;
- Việt Nam đề xuất một biện pháp SPS tương đương và đề nghị EU xem xét công nhận;
- EU dành hỗ trợ kỹ thuật để giúp Việt Nam dần đáp ứng được biện pháp này. Liên minh châu Âu sẽ dành các hỗ trợ kỹ thuật cho nhu cầu cụ thể của Việt Nam để tuân thủ nghĩa vụ về SPS, đồng thời cũng sẽ cân nhắc tạo điều kiện cho Việt Nam duy trì cơ hội xuất khẩu trong khi vẫn đảm bảo mức bảo vệ của Liên minh châu Âu.
- Thương mại dịch vụ và đầu tư
Cam kết của Việt Nam và EU trong EVFTA về thương mại dịch vụ đầu tư hướng tới việc tạo ra một môi trường đầu tư cởi mở, thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp hai bên, trong đó:
- Cam kết của EU cho Việt Nam: Cao hơn cam kết của EU trong WTO và tương đương với mức cao nhất của EU trong các FTA gần đây của EU
- Cam kết của Việt Nam cho EU: Cao hơn cam kết của Việt Nam trong WTO và ít nhất là ngang bằng với mức mở cửa cao nhất mà Việt Nam cho các đối tác khác trong các đàm phán FTA hiện tại của Việt Nam (bao gồm cả TPP);
- Các cam kết về bảo hộ đầu tư và giải quyết tranh chấp vẫn đang được hai bên đàm phán (chưa kết thúc).
Về dịch vụ:
Các cam kết về mở cửa: Trong EVFTA, Việt Nam cam kết mở cửa rộng hơn cho các nhà cung cấp dịch của EU so với trong WTO trong các lĩnh vực:
- Dịch vụ kinh doanh (business services)
- Dịch vụ môi trường
- Dịch vụ bưu chính và chuyển phát
- Ngân hàng
- Bảo hiểm
- Vận tải biển
Việt Nam cũng cam kết một loạt các quy tắc ràng buộc liên quan đến các lĩnh vực như dịch vụ tài chính, viễn thông, vận tải biển và bưu chính.
Đặc biệt: EVFTA sẽ bao gồm một điều khoản cho phép các cam kết cao nhất của Việt nam trong các FTA đang đàm phán tại thời điểm hiện tại sẽ được đưa vào trong EVFTA.
Về đầu tư:
Việt Nam cam kết mở cửa rộng hơn cho đầu tư từ EU trong một số ngành sản xuất như:
- Thực phẩm và đồ uống
- Phân bón và hợp chất nitơ
- Săm lốp
- Găng tay và sản phẩm nhựa
- Đồ gốm
- Vật liệu xây dựng
- Đối với ngành sản xuất máy móc, Việt Nam cam kết dỡ bỏ các hạn chế đối với việc lắp ráp động cơ hàng hải, máy móc nông nghiệp, đồ gia dụng và đối với sản xuất xe đạp.
- Việt Nam cũng đưa ra một số cam kết về tái chế.
Bảng Một số cam kết mở cửa dịch vụ và đầu tư của Việt Nam cho EU trong EVFTA
Nguồn: Ủy ban châu Âu
- Cam kết của Việt Nam
Dịch vụ bưu chính:
Việt Nam cam kết không hạn chế dịch vụ chuyển phát, ngoại trừ các dịch vụ bưu chính công ích1 và dịch vụ bưu chính dành riêng. Việc cung cấp dịch vụ qua biên giới có thể được thực hiện thông qua sự liên kết với một nhà cung cấp dịch vụ trong nước đối với các khâu thu gom và chuyển phát. Với các dịch vụ được cung cấp cạnh tranh trên thị trường, dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của EU sẽ được dành đối xử không kém thuận lợi hơn đối xử dành cho Tổng công ty Bưu điện Việt Nam cũng như các công ty thành viên.
Dịch vụ viễn thông:
Cung cấp dịch vụ qua biên giới, Việt Nam cam kết:
- Đối với dịch vụ hữu tuyến và di động mặt đất: không hạn chế, ngoại trừ dịch vụ phải được cung cấp thông qua thỏa thuận thương mại với pháp nhân được thành lập tại Việt Nam và được cấp phép cung cấp dịch vụ viễn thông quốc tế.
- Đối với dịch vụ viễn thông vệ tinh: không hạn chế, ngoại trừ phải được cung cấp thông qua thỏa thuận thương mại với nhà cung cấp dịch vụ viễn thông vệ tinh quốc tế Việt Nam được cấp phép, trừ trường hợp dịch vụ viễn thông vệ tinh cung cấp cho: khách hàng kinh doanh ngoài biển, cơ quan chính phủ, nhà cung cấp dịch vụ có hạ tầng mạng, đài phát thanh và truyền hình, văn phòng đại diện chính thức của các tổ chức quốc tế, cơ quan đại diện ngoại giao và lãnh sự, khu phát triển phần mềm và khu công nghệ cao, và công ty đa quốc gia đã được cấp phép sử dụng trạm vệ tinh mặt đất.
Đầu tư, thành lập hiện diện thương mại, Việt Nam cam kết:
- Đối với dịch vụ viễn thông cơ bản không có hạ tầng mạng: Không hạn chế, ngoại trừ phải thông qua hình thức liên doanh và được tự do chọn đối tác. Phần vốn góp của phía nước ngoài trong liên doanh không vượt quá 65% vốn pháp định của liên 5 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực, hạn chế về vốn góp được nâng lên 75%.
- Đối với dịch vụ viễn thông cơ bản có hạ tầng mạng: Không hạn chế, ngoại trừ phải thông qua hình thức liên doanh với nhà cung cấp dịch vụ viễn thông được cấp phép tại Việt Phần vốn góp của phía nước ngoài trong liên doanh không vượt quá 49% vốn pháp định của liên doanh. 51% là nắm quyền kiểm soát trong việc quản lý liên doanh.
- Đối với dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng không có hạ tầng mạng: Không hạn chế, ngoại trừ phải thông qua hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc liên Phần vốn góp của phía nước ngoài trong liên doanh không được vượt quá 65% vốn pháp định của liên doanh. 5 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực, hạn chế về vốn góp được nâng lên 100%.
- Dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng có hạ tầng mạng: Không hạn chế, ngoại trừ phải thông qua hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc liên doanh với nhà cung cấp dịch vụ viễn thông được cấp phép tại Việt Nam. Phần vốn góp của phía nước ngoài trong liên doanh không được vượt quá 50% vốn pháp định của liên 5 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực, hạn chế về vốn góp được nâng lên 65%. 51% là nắm quyền kiểm soát trong việc quản lý liên doanh.
Các nhà đầu tư nước ngoài tham gia các hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) có thể ký mới thỏa thuận hiện tại hoặc chuyển sang hình thức hiện diện khác với những điều kiện không kém thuận lợi hơn những điều kiện họ đang được hưởng.
Cam kết bổ sung đối với cáp quang biển quốc tế: Khi Việt Nam là một thành viên sở hữu hệ thống cáp quang biển Công-xooc-xi-om, Việt Nam cam kết cho phép các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài kiểm soát dung lượng truyền dẫn cáp quang biển toàn chủ (quyền sử dụng không tách rời IRU hay dạng sở hữu Công-xooc-xi-om) kết cuối tại một trạm cập bờ được cấp phép tại Việt Nam, được phép khai thác và cung cấp dung lượng đó cho các nhà cung cấp dịch vụ quốc tế có hạ tầng mạng đựơc cấp phép tại Việt Nam, và cho các nhà cung cấp dịch vụ VPN và IXP quốc tế được cấp phép tại Việt Nam.
Dịch vụ ngân hàng:
- Đối với việc cung cấp dịch vụ qua biên giới: Tương tự cam kết WTO và CPTPP, Việt Nam chỉ mở cửa thị trường 2 phân ngành B(k) và B(l) trong biểu cam kết.
- Đối với việc thành lập hiện diện thương mại: Các hình thức hiện diện như văn phòng đại diện, chi nhánh, liên doanh, 100% vốn đầu tư EU đều đã được cho phép trong khuôn khổ Việt Nam bảo lưu quyền hạn chế việc tham gia cổ phần của các tổ chức tín dụng nước ngoài (bao gồm cả EU) tại các ngân hàng thương mại quốc doanh của Việt Nam được cổ phần hóa như mức tham gia cổ phần của các ngân hàng Việt Nam. Đối với việc tham gia góp vốn dưới hình thức mua cổ phần, tổng mức góp vốn mua cổ phần của các tổ chức, cá nhân nước ngoài tại từng ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam không được vượt quá 30% vốn điều lệ của ngân hàng đó, trừ khi pháp luật Việt Nam có quy định khác hoặc được sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam. Ngoài ra, trong vòng 5 năm kể từ ngày Hiệp định EVFTA có hiệu lực, Việt Nam sẽ “xem xét thuận lợi” các yêu cầu của các tổ chức tín dụng EU về việc nâng tổng mức góp vốn mua cổ phần tại 02 ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam lên mức 49% (cam kết này không áp dụng đối với 4 ngân hàng thương mại mà nhà nước có cổ phần lớn (cụ thể Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - BIDV, Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam - Vietcombank, Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam - Vietinbank, và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Agribank).
Chi nhánh ngân hàng thương mại EU không được phép mở các điểm giao dịch khác ngoài trụ sở chi nhánh của mình, ngoại trừ các cột rút tiền tự động (ATM). Một chi nhánh ngân hàng EU tại Việt Nam được nộp báo cáo tài chính tổng hợp cho nhiều chi nhánh. Tuy nhiên, từng chi nhánh vẫn phải đảm bảo các tỷ lệ an toàn theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước. Các tổ chức tín dụng EU được phép phát hành thẻ tín dụng trên cơ sở đối xử quốc gia.
Dịch vụ bảo hiểm:
- Đối với việc cung cấp dịch vụ qua biên giới: Việt Nam cho phép cung cấp qua biên giới dịch vụ bảo hiểm (không bao gồm bảo hiểm y tế bắt buộc) cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam; dịch vụ tái bảo hiểm và nhượng tái bảo hiểm; dịch vụ bảo hiểm vận tải quốc tế; dịch vụ môi giới bảo hiểm và môi giới tái bảo hiểm; dịch vụ tư vấn, dịch vụ tính toán, đánh giá rủi ro và giải quyết bồi thường.
- Đối với việc thành lập hiện diện thương mại: Việt Nam cam kết không hạn chế (kể cả đối với dịch vụ bảo hiểm y tế tự nguyện theo pháp luật Việt Nam) và cho phép doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ. Chi nhánh của doanh nghiệp tái bảo hiểm nước ngoài được phép thành lập sau 3 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực.
Dịch vụ chứng khoán:
Việt Nam cho phép nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài được thành lập văn phòng đại diện, cho phép thành lập công ty liên doanh với các đối tác Việt Nam trong đó tỷ lệ vốn góp của phía nước ngoài không vượt quá 49% và cho phép thành lập doanh nghiệp chứng khoán 100% vốn đầu tư nước ngoài. Đối với dịch vụ quản lý tài sản; thanh toán và thanh toán bù trừ chứng khoán, các công cụ phái sinh và các sản phẩm liên quan đến chứng khoán khác; cung cấp và chuyển thông tin tài chính, các phần mềm liên quan của các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán; tư vấn, trung gian và các dịch vụ phụ trợ liên quan đến chứng khoán, Việt Nam cũng cho phép các nhà cung cấp nước ngoài được thành lập chi nhánh.
Việt Nam cũng cho phép xử lý dữ liệu tài chính và cung cấp các dịch vụ tư vấn, trung gian môi giới qua biên giới, ngoại trừ các dịch vụ liên quan đến giao dịch cho tài khoản của mình hoặc tài khoản của khách hàng tại sở giao dịch chứng khoán, thị trường giao dịch trực tiếp (OTC) hay các thị trường khác.
Dịch vụ vận tải biển:
- Đối với dịch vụ vận tải biển hành khách và hàng hóa (trừ vận tải nội địa): Việt Nam cho phép thành lập các công ty liên doanh vận hành đội tàu treo cờ Việt Nam với mức vốn góp nước ngoài trong liên doanh đến 70% vốn pháp định của liên Thuyền viên nước ngoài được phép làm việc trên các tàu biển treo cờ Việt Nam (hoặc được đăng ký ở Việt Nam) thuộc sở hữu của các doanh nghiệp liên doanh tại Việt Nam nhưng tổng số không vượt quá 1/3 định biên của tàu. Thuyền trưởng hoặc thuyền phó thứ nhất phải là công dân Việt Nam. Đối với các hình thức hiện diện thương mại khác để cung cấp dịch vụ vận tải biển quốc tế, Việt Nam cho phép thành lập công ty vận tải biển nước ngoài liên doanh hoặc 100% vốn đầu tư nước ngoài.
- Đối với dịch vụ cho thuê tàu biển có người lái: Việt Nam cho phép liên doanh 70% vốn góp nước ngoài.
- Đối với dịch vụ bảo trì và sửa chữa tàu biển: Việt Nam cho phép liên doanh 70% vốn góp nước ngoài. | Đối với dịch vụ đại lý tàu biển: Việt Nam cho phép liên doanh đến 49% vốn góp nước ngoài.
- Đối với dịch vụ gom hàng và dịch vụ tái phân phối công-ten-nơ rỗng: Ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực, ta cho phép các nhà cung cấp dịch vụ vận tải biển quốc tế của EU hoặc thành viên EU thực hiện các dịch vụ này trên tuyến Quy Nhơn - Cái Mép. Sau 05 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, ta sẽ cho phép thực hiện dịch vụ tái phân phối côngten-nơ rỗng trên tất cả các tuyến.
- Đối với dịch vụ nạo vét: Việt Nam cho phép doanh nghiệp EU lập liên doanh tới 51% để cung cấp dịch vụ tại Việt Nam.
Dịch vụ vận tải hàng không:
- Đối với dịch vụ bán và tiếp thị sản phẩm hàng không: được phép cung cấp dịch vụ tại Việt Nam thông qua văn phòng bán vé của mình hoặc các đại lý tại Việt Nam.
- Đối với dịch vụ đặt, giữ chỗ bằng máy tính: phải sử dụng mạng viễn thông công cộng dưới sự quản lý của nhà chức trách viễn thông Việt Nam.
- Đối với dịch vụ bảo dưỡng và sửa chữa máy bay: Việt Nam cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
- Đối với dịch vụ mặt đất ở sân bay: Sau 5 năm kể từ khi Việt Nam mở cửa cho khu vực tư nhân sẽ cho phép các doanh nghiệp EU lập liên doanh với đối tác Việt Nam, trong đó vốn của phía nước ngoài không quá 49%, để đấu thầu cung cấp dịch vụ này. Ba năm sau đó, hạn chế vốn nước ngoài sẽ là 51%. Tuy nhiên trong cam kết này, Việt Nam không mở cửa hoàn toàn mà có hạn chế, ví dụ mở cửa với từng sân bay hoặc nhà ga sân bay mà cho phép tư nhân tham gia (không phải tất cả sân bay và nhà ga sân bay), danh mục các hoạt động cụ thể và số lượng nhà cung cấp dịch vụ tại mỗi sân bay phụ thuộc vào quy mô của sân Đồng thời, Việt Nam bảo lưu quyền xem xét cấp phép cho các liên doanh của nước ngoài dựa trên nhiều yếu tố, trong đó có (i) các lợi ích kinh tế-xã hội thực mà nhà đầu tư EU có thể tạo ra, cam kết lâu dài của nhà đầu tư, cam kết về xây dựng năng lực và chuyển giao công nghệ cho Việt Nam, đóng góp cho nền kinh tế Việt Nam; (ii) năng lực tài chính và kinh nghiệm của nhà đầu tư; và (iii) tác động đến an ninh quốc phòng của Việt Nam.
- Đối với dịch vụ cung cấp đồ ăn trên máy bay: Nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được phép thành lập hiện diện thương mại với tỷ lệ vốn góp nước ngoài không quá 49%.
Dịch vụ phân phối:
- Đối với diện mặt hàng: Việt Nam loại trừ thuốc lá và xì gà, sách, báo và tạp chí, vật phẩm đã ghi hình, kim loại quý và đá quý, dược phẩm, thuốc nổ, dầu thô và dầu đã qua chế biến, gạo, đường mía và đường củ cải khỏi phạm vi cam kết tương tự như cam kết WTO.
- Đối với việc cung cấp dịch vụ phân phối qua biên giới: Việt Nam chỉ cho phép phân phối các sản phẩm phục vụ nhu cầu cá nhân và các chương trình phần mềm máy tính hợp pháp phục vụ nhu cầu cá nhân hoặc vì mục đích thương mại.
- Đối với việc cung cấp dịch vụ thông qua hình thức hiện diện thương mại: Trong 5 năm đầu kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, việc thành lập các cơ sở bán lẻ (ngoài cơ sở thứ nhất) sẽ được xem xét trên cơ sở kiểm tra nhu cầu kinh tế, trừ trường hợp thành lập cơ sở bán lẻ nhỏ hơn 500m2 trong khu vực quy hoạch cho các hoạt động kinh doanh và đã hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng. Sau thời hạn này, Việt Nam sẽ bỏ yêu cầu kiểm tra nhu cầu kinh tế nhưng bảo lưu quyền thực hiện quy hoạch hệ thống phân phối trên cơ sở không phân biệt đối xử.
Việt Nam cũng đồng ý không phân biệt đối xử trong sản xuất, nhập khẩu và phân phối (bao gồm đại lý hoa hồng, bán buôn và bán lẻ) rượu vang và rượu mạnh. Theo đó, cho phép các doanh nghiệp EU được bảo lưu điều kiện hoạt động theo các giấy phép hiện hành liên quan tới phân phối rượu mạnh; chỉ cần một giấy phép để thực hiện các hoạt động nhập khẩu, phân phối đối với rượu vang.
- Đối với dịch vụ nhượng quyền thương mại: Việt Nam cam kết không hạn chế. Việt Nam cũng cho phép thành lập chi nhánh với điều kiện trưởng chi nhánh phải là người thường trú tại Việt Nam.
Trong các ngành phi dịch vụ
Việt Nam cam kết không hạn chế đầu tư từ EU trong các ngành phi dịch vụ như sau:
- Sản xuất hàng dệt may;
- Sản xuất trang phục, phụ kiện và các sản phẩm lông thú;
- Thuộc da và phụ kiện thuộc da; sản xuất va li, túi xách, yên, thắt lưng và giày dép;
- Sản xuất gỗ và các sản phẩm từ gỗ và mùn cưa, ngoại trừ đồ nội thất; sản xuất các sản phẩm mây đan (ngoại trừ các biện pháp để bảo vệ rừng tự nhiên);
- Sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy;
- Sản xuất các sản phẩm lò than cốc;
- Sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất trừ việc nổ;
- Sản xuất cao su và các sản phẩm nhựa;
- Sản xuất các sản phẩm khoáng sản phi kim loại (tuy nhiên đầu tư trong các ngành này phải căn cứ vào quy hoạch của Chính phủ);
- Sản xuất kim loại cơ bản, ngoại trừ sản xuất thanh thép xây dựng D6D32 mm và ống thép hàn D11-D114mm; tấm nhuộm màu và mạ kẽm;
- Sản xuất các sản phẩm từ kim loại, ngoại trừ máy móc, thiết bị;
- Sản xuất máy móc đa năng;
- Sản xuất thiết bị đặc biệt ngoại trừ vũ khí và đạn dược, pháo nổ, pháo hoa;
- Sản xuất các thiết bị gia dụng chưa được phân loại;
- Sản xuất thiết bị văn phòng, máy đánh chữ và máy tính;
- Sản xuất thiết bị và dụng cụ phát thanh, truyền hình và truyền thông;
- Sản xuất dụng cụ, thiết bị y tế, kiểm tra độ chính xác và quang học, đồng hồ cá nhân và các loại đồng hồ đo thời gian khác;
- Sản xuất xe có động cơ, rơ-moóc và xe bán rơ-moóc, ngoại trừ đầu tư sản xuất lắp ráp động cơ phải căn cứ vào quy hoạch của Chính phủ, quy hoạch này có thể dành ưu đãi hơn cho nhà đầu tư trong nước;
- Sản xuất và sửa chữa tàu biển gồm tàu hàng trên 10000DWT; tàu công-te-nơ trên 800 TEU; tàu chở khách trên 500 chỗ (chỉ cho phép liên doanh trong đó vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không được vượt quá 50%);
- Sản xuất đầu máy xe lửa, xe điện và toa xe (chỉ cho phép liên doanh trong đó vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không được vượt quá 49%);
- Sản xuất máy bay và tàu vũ trụ (chỉ cho phép liên doanh trong đó vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không được vượt quá 49%);
- Sản xuất xe gắn máy (đầu tư sản xuất lắp ráp động cơ phải có căn cứ vào quy hoạch của Chính phủ, quy hoạch này có thể dành ưu đãi hơn cho nhà đầu tư trong nước);
- Sản xuất xe đạp và xe dành cho người khuyết tật;
- Sản xuất nội thất và các sản phẩm khác chưa được phân loại;
- Tái chế, ngoại trừ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không trực tiếp thu thập rác thải từ các hộ gia đình. Các doanh nghiệp này chỉ được phép cung cấp các dịch vụ tại các địa điểm thu thập rác thảo theo quy định của chính quyền cấp tỉnh và cấp huyện.
- Cam kết của EU
Dịch vụ máy tính và các dịch vụ liên quan:
EU cam kết không hạn chế.
Dịch vụ kinh doanh khác ngoài dịch vụ máy tính và các dịch vụ liên quan:
EU cam kết không hạn chế đối với nhiều dịch vụ kinh doanh khác như:
- Dịch vụ nghiên cứu và phát triển về khoa học xã hội và nhân văn;
- Dịch vụ cho thuê trang thiết bị viễn thông;
- Dịch vụ quảng cáo;
- Dịch vụ nghiên cứu thị trường và thăm dò ý kiến cộng đồng;
- Dịch vụ tư vấn quản lý;
- Dịch vụ tư vấn và cố vấn liên quan đến sản xuất;
- Dịch vụ bảo trì và sửa chữa các sản phẩm kim loại, máy móc (không dùng cho văn phòng), thiết bị (không dùng cho vận chuyển và văn phòng) và các mặt hàng dùng cho cá nhân và hộ gia đình;
- Dịch vụ đóng gói;
- Dịch vụ tổ chức hội nghị;
- Dịch vụ tư vấn viễn thông;
- Dịch vụ trả lời điện thoại.
Dịch vụ bưu chính và chuyển phát:
Dịch vụ liên quan đến việc xử lý bưu phẩm theo danh sách các phân ngành sau đây, dù cho các điểm đến trong nước hoặc nước ngoài: (i) Xử lý các thông tin dưới dạng văn bản có địa chỉ trên bất kỳ loại phương tiện vật lý nào, bao gồm dịch vụ có thư lai ghép và thư gửi trực tiếp; (ii) Xử lý bưu kiện và các gói hàng có địa chỉ; (iii) Xử lý các sản phẩm báo chí có địa chỉ; (iv) Xử lý các vật phẩm nêu trong từ điểm (i) đến (iii) ở trên dưới hình thức thư đã đăng ký hoặc bảo đảm; (v) dịch vụ chuyển phát nhanh cho các vật phẩm nêu từ điểm (i) đến (iii) ở trên; (vi) Xử lý các bưu kiện không có địa chỉ; và (vii) trao đổi tài liệu. Tuy nhiên, phân ngành (i), (iv) và (v) được loại trừ khi nằm trong phạm vi của các dịch vụ mà giá của nó ít hơn năm lần so với giá cước cơ bản, với điều kiện cân nặng ít hơn 100 gam, và dành cho dịch vụ thư đã đăng ký sử dụng trong quá trình thực hiện thủ tục tư pháp hoặc hành chính (một phần của CPC 751, một phần của CPC 71235 một phần của CPC 73210):
Cung cấp dịch vụ qua biên giới, EU cam kết: Không hạn chế.
Đầu tư, hiện diện thương mại, EU cam kết: Không hạn chế
Dịch vụ viễn thông không bao gồm các dịch vụ phát sóng và các hoạt động kinh tế bao gồm việc cung cấp nội dung mà yêu cầu các dịch vụ viễn thông cho việc truyền tải. Tất cả các dịch vụ bao gồm việc truyền và nhận tín hiệu bằng bất kỳ phương tiện điện từ không bao gồm truyền quảng bá:
Cung cấp dịch vụ qua biên giới, EU cam kết: Không hạn chế.
Đầu tư, hiện diện thương mại, EU cam kết: Không hạn chế
Dịch vụ bảo hiểm và các dịch vụ liên quan đến bảo hiểm:
- Đối với phương thức cung cấp dịch vụ qua biên giới và tiêu dùng ở nước ngoài: Hầu hết các nước thành viên EU chỉ cam kết dịch vụ bảo hiểm gốc để bảo hiểm các rủi ro liên quan đến vận tải hàng hóa đường biển, hàng không thương mại, vũ trụ (kể cả vệ tinh) và hàng hóa quá cảnh quốc tế. Ngoài ra, một số nước thành viên cũng duy trì điều kiện về hình thức pháp nhân và chi nhánh để cung cấp dịch vụ.
- Đối với phương thức tiêu dùng ở nước ngoài: Hầu hết các nước thành viên EU chưa cam kết cho môi giới để tiêu dùng ở nước ngoài. Ngoài ra, một số nước thành viên cũng duy trì điều kiện để ký hợp đồng hoặc đối tượng được bảo hiểm.
- Đối với việc thành lập hiện diện thương mại: Một số nước thành viên EU duy trì điều kiện cấp giấy phép, hình thức pháp nhân, chi nhánh để cung cấp dịch vụ, yêu cầu về cư trú (hoặc thay thế bằng kinh nghiệm).
Dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác (ngoại trừ dịch vụ bảo hiểm):
- Đối với phương thức cung cấp dịch vụ qua biên giới: Hầu hết các nước EU chỉ cho phép cung cấp các thông tin tài chính và dữ liệu tài chính đang xử lý, tư vấn và các dịch vụ hỗ trợ khác không bao gồm môi giới. Ngoài ra, một số nước thành viên EU duy trì điều kiện về hình thức pháp nhân, chi nhánh, yêu cầu sử dụng mạng viễn thông công cộng hoặc mạng của nhà cung cấp được cấp phép khác.
- Đối với phương thức tiêu dùng ở nước ngoài: Một số nước thành viên EU duy trì các điều kiện liên quan đến việc sử dụng mạng viễn thông công cộng, hoặc mạng của nhà cung cấp được cấp phép khác.
- Đối với việc thành lập hiện diện thương mại: EU duy trì các điều kiện về hình thức pháp nhân và chi nhánh để cung cấp dịch vụ. Một số nước thành viên cũng duy trì yêu cầu về cư trú.
Dịch vụ vận tải biển:
- Đối với dịch vụ vận tải biển hàng hóa và hành khách quốc tế: EU cam kết không hạn chế, ngoại trừ Áo, Bỉ, Bun-ga-ri, Cộng hòa Síp, Cộng hòa Séc, Đức, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Ê-xtô-ni-a, Phần Lan, Pháp, Hy Lạp, Hung-ga-ri, Ai-len, I-ta-li-a, Lít-va, Lúc-xem-bua, Hà Lan, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Ru-ma-ni, Xlô-va-ki-a, Xlô-ven-ni-a, Thụy Điển chưa cam kết đối với việc thành lập công ty đăng ký vì mục đích vận hành đội tàu treo cờ quốc tế quốc gia của nước đó.
- Đối với dịch vụ hỗ trợ vận tải biển (dịch vụ xếp dỡ hàng hóa, dịch vụ kho bãi, dịch vụ thông quan, dịch vụ kho bãi công-te-nơ, dịch vụ đại lý hàng hải, dịch vụ giao nhận vận tải hàng hải, cho thuê tàu với thủy thủ đoàn, dịch vụ lai dắt, dịch vụ hỗ trợ vận tải biển khác): EU cam kết không hạn chế ngoại trừ:
- Áo, Bỉ, Bun-ga-ri, Cộng hòa Síp, Cộng hòa Séc, Đức, Đan Mạch, Tây Ban Nha, E-xtô-ni-a, Phần Lan, Pháp, Hy Lạp, Hung-ga-ri, Ailen, I-ta-li-a, Lít-va, Lúc-xem-bua, Hà Lan, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Ru-ma-ni, Xlô-va-ki-a, Xlô-ven-ni-a, Thụy Điển chưa cam kết đối với việc thành lập công ty đăng ký vì mục đích vận hành đội tàu treo cờ quốc gia của nước đó.
- I-ta-li-a áp dụng kiểm tra nhu cầu kinh tế đối với dịch vụ xếp dỡ hàng hóa hàng hải và áp dụng yêu cầu về cư trú đối với dịch vụ đại lý hàng hải.
- Bun-ga-ri duy trì hạn chế đối với việc thành lập chi nhánh trực tiếp (Yêu cầu thành lập công ty). Đối với dịch vụ đại lý hàng hải, công ty tàu biểu của Việt Nam có quyền thành lập văn phòng chi nhánh hoạt động như đại lý cho văn phòng trụ sở chính. Dịch vụ hỗ trợ vận tải biển sử dụng tàu treo cờ Bun-ga-ri áp dụng điều kiện về quốc tịch.
- Crô-a-ti-a không cam kết đối với dịch vụ thông quan, dịch vụ kho bãi công-te-nơ, dịch vụ đại lý hàng hải và dịch vụ giao nhận vận tải hàng hải. Đối với dịch vụ xếp dỡ hàng hóa, dịch vụ kho bãi, dịch vụ lai dắt và các dịch vụ hỗ trợ khác (bao gồm cung cấp đồ ăn), yêu cầu pháp nhân nước ngoài phải thành lập công ty tại Crô-a-ti-a. Số lượng nhà cung cấp dịch vụ có thể bị hạn chế cho sức chứa của cảng.
- Xlô-ven-ni-a duy trì hạn chế chỉ pháp nhận thành lập tại Xlô-venni-a được cung cấp dịch vụ thông quan (không cho phép chi nhánh).
- Phần Lan duy trì hạn chế chỉ các loại tàu treo cờ của Phần Lan mới được cung cấp dịch vụ.
Dịch vụ vận tải hàng không:
- Đối với dịch vụ mặt đất (bao gồm dịch vụ cung cấp đồ ăn): EU chưa mở cửa nhưng cam kết sẽ dành đối xử quốc gia cho nhà cung cấp dịch vụ Việt Nam khi mở cửa. Ngoài ra, hoạt động và số lượng nhà cung cấp dịch vụ tại sân bay có thể bị hạn chế do quy mô, sức chứa nhưng không ít hơn hai nhà cung cấp trong trường hợp có lý do khác. Bun-gari không cho phép việc trực tiếp thành lập chi nhánh (yêu cầu thành lập công ty).
- Đối với dịch vụ kho bãi: EU cam kết không hạn chế ngoại trừ:
- Bun-ga-ri chưa cho phép thành lập chi nhánh trực tiếp (yêu cầu thành lập công ty).
- Ba Lan duy trì một số hạn chế đối với dịch vụ lưu trữ hàng hóa đông lạnh hoặc làm mát và lưu kho số lượng lớn chất lỏng hoặc khí Hoạt động và số lượng nhà cung cấp dịch vụ tại sân bay có thể bị hạn chế do quy mô, sức chứa nhưng không ít hơn hai nhà cung cấp trong trường hợp có lý do khác.
- Đối với dịch vụ đại lý vận tải hàng hóa: EU cam kết không hạn chế ngoại trừ:
- Cộng hòa Síp, Cộng hòa Séc, Hung-ga-ri, Man-ta, Ba Lan, Ru-mani, Xlô-va-ki-a chưa cam kết.
- Bun-ga-ri duy trì hạn chế là nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài chỉ có thể cung cấp dịch vụ thông qua góp vốn vào các công ty của Bun-ga-ri với hạn chế vốn góp nước ngoài là 49% và thông qua chi nhánh.
- Xlô-ven-ni-a chỉ cho phép pháp nhân thành lập tại Xlô-ven-ni-a thực hiện thông quan (không cho phép chi nhánh).
- Đối với dịch vụ cho thuê máy bay kèm người điều khiển: EU không hạn chế ngoại trừ máy bay của một hãng hàng không EU phải được đăng ký tại nước thành viên EU cấp phép cho hãng hàng không đó hoặc tại một nước thành viên khác (nếu được nước thành viên cấp phép cho hãng hàng không đó đồng ý). Để được đăng ký, máy bay đó hoặc phải được sở hữu bởi thể nhân đáp ứng các tiêu chí về quốc tịch cụ thể hoặc tiêu chí cụ thể đến sở hữu vốn và kiểm soát. Máy bay phải được vận hành bởi một hãng hàng không hoặc bởi thể nhân đáp ứng các tiêu chí về quốc tịch cụ thể hoặc tiêu chí cụ thể đến sở hữu vốn và kiểm soát.
- Đối với dịch vụ bán hàng tiếp thị và dịch vụ hệ thống đặt giữ chỗ qua máy tính (CRS): EU cam kết không hạn chế, ngoại trừ:
- Duy trì quyền áp dụng nguyên tắc đối xử có đi có lại với dịch vụ và nhà cung cấp của Việt Nam.
- Bun-ga-ri chưa cho phép thành lập chi nhánh mà yêu cầu phải thành lập công ty.
Dịch vụ phân phối:
EU loại trừ vũ khí, đạn dược, chất nổ và các vật dụng chiến tranh khác ra khỏi phạm vi cam kết.
- Đối với việc cung cấp dịch vụ bán buôn, bán lẻ, đại lý hoa hồng qua biên giới và tiêu dùng ở nước ngoài: EU cam kết không hạn chế ngoại trừ:
- Các thành viên EU ngoại trừ Áo, Xlô-ven-ni-a và Phần Lan chưa cam kết đối với việc phân phối các sản phẩm hóa chất, và các kim loại quý (và đá).
- Áo chưa cam kết đối với việc phân phối hoa, vật liệu dễ cháy, các thiết bị nổ và các chất độc hại.
- Áo và Bun-ga-ri chưa cam kết đối với việc phân phối sản phẩm dùng trong y tế.
- Cro-a-ti-a chưa cam kết đối với các sản phẩm thuốc lá.
- Lít-va duy trì hạn chế phải có giấy phép khi phân phối pháo hoa và giới hạn chỉ có các pháp nhân được thành lập tại EU mới có thể xin được giấy phép. Thụy Điển duy trì hạn chế đối với sản phẩm diệt khuẩn.
- Đối với việc cung cấp dịch vụ bán buôn, bán lẻ, đại lý hoa hồng qua biên giới: EU cam kết không hạn chế ngoại trừ:
- Áo, Bun-ga-ri, Pháp, Ba Lan, Ru-ma-ni chưa cam kết đối với việc phân phối thuốc lá và sản phẩm thuốc lá.
- I-ta-li-a duy trì độc quyền nhà nước đối với bán buôn thuốc lá.
- Bun-ga-ri, Phần Lan, Ba Lan, Ru-ma-ni chưa cam kết đối với việc phân phối các loại đồ uống có cồn.
- Thụy Điển chưa cam kết đối với việc bán lẻ đồ uống có cồn.
- Áo, Bun-ga-ri, CH Séc, Phần Lan, Ru-ma-ni, Xlô-va-ki-a, Xlô-venni-a chưa cam kết đối với phân phối dược phẩm.
- Bun-ga-ri, Hung-ga-ri, Ba Lan chưa cam kết đối với dịch vụ môi giới hàng hóa.
- Pháp chưa cam kết đối với thương nhân và môi giới làm đại lý hoa hồng tại 17 thị trường có lợi ích quốc gia về sản phẩm thực phẩm tươi sống và bán buôn dược phẩm.
- Man-ta chưa cam kết đối với dịch vụ đại lý hoa hồng.
- Bỉ, Bun-ga-ri, Cộng hòa Síp, Đức, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Pháp, Hy Lạp, Ai-len, I-ta-li-a, Lúc-xem-bua, Man-ta, Hà Lan, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Xlô-va-ki-a chưa cam kết dịch vụ bán lẻ, ngoại trừ hình thức thư đặt hàng.
- Cộng hòa Síp duy trì hạn chế phải có điều kiện quốc tịch khi bán buôn dược phẩm.
- Đối với việc thành lập hiện diện thương mại: EU cam kết không duy trì hạn chế nào ngoại trừ:
- Áo chưa cam kết đối với việc phân phối pháo hoa, mặt hàng dễ cháy nổ, các vật liệu dễ cháy và chất nổ và chất độc hại. Đối với việc phân phối dược phẩm và thuốc lá, Áo chỉ dành độc quyền và/ hoặc cấp phép cho công dân của các nước thành viên EU và cho các pháp nhân của EU có trụ sở tại EU.
- Phần Lan chưa cam kết đối với việc phân phối thức uống và dược phẩm.
- Crô-a-ti-a chưa cam kết đối với việc phân phối sản phẩm thuốc lá.
- Pháp và I-ta-li-a duy trì độc quyền nhà nước đối với bán buôn thuốc lá.
- Pháp duy trì hạn chế cấp phép bán buôn dược phẩm phải đáp ứng kiểm tra nhu cầu kinh tế.
- Tây Ban Nha, Pháp, và I-ta-li-a duy trì độc quyền nhà nước đối với bán lẻ thuốc lá.
- Bỉ, Bun-ga-ri, Đan Mạch, Pháp, I-ta-li-a, Man-ta và Bồ Đào Nha duy trì hạn chế các cửa hàng bách hóa bán lẻ (trong trường hợp của Pháp phải là các cừa hàng lớn) được cấp phép phải đáp ứng kiểm tra nhu cầu kinh tế.
- Ai-len, Thụy Điển chưa cam kết đối với việc bán lẻ đồ uống có cồn.
Cam kết đối với các ngành phi dịch vụ
EU cam kết không hạn chế đầu tư từ Việt Nam trong các ngành phi dịch vụ như sau:
- Sản xuất thực phẩm và đồ uống;
- Sản xuất các sản phẩm thuốc lá;
- Sản xuất hàng dệt may;
- Sản xuất trang phục; và nhuộm da lông thú;
- Thuộc da và quần áo bằng da; sản xuất hành lý, túi xách, yên, dây nịt và giày dép;
- Sản xuất gỗ và sản phẩm gỗ, nứa, trừ đồ nội thất; sản xuất đồ làm từ rơm rạ và vật liệu tết bện;
- Sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy;
- Sản xuất sản phẩm lò than cốc;
- Sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa học khác với chất liệu nổ;
- Sản xuất các sản phẩm cao su và chất dẻo;
- Sản xuất các sản phẩm khoáng sản phi kim loại khác;
- Sản xuất kim loại cơ bản;
- Sản xuất các sản phẩm từ kim loại, trừ máy móc, thiết bị;
- Sản xuất máy thông dụng;
- Sản xuất máy móc chuyên dụng ngoài vũ khí và đạn dược;
- Sản xuất các thiết bị gia dụng chưa được phân loại;
- Sản xuất máy móc dùng cho văn phòng, hoạt động kế toán và điện toán;
- Sản xuất máy móc và thiết bị điện chưa được phân loại;
- Sản xuất radio, tivi và thiết bị truyền thông và thiết bị máy móc khác;
- Sản xuất dụng cụ y tế, dụng cụ chính xác, dụng cụ quang học, đồng hồ đeo tay và đồng hồ treo tường;
- Sản xuất xe có động cơ, rơ-moóc, bán rơ-moóc;
- Sản xuất các thiết bị vận tải khác (phi quân sự, ngoại trừ việc sản xuất các tàu chiến, máy bay chiến đấu và thiết bị vận tải khác vì mục đích quân sự;
- Sản xuất đồ nội thất; sản xuất chưa được phân loại;
- Tái chế.
- Mua sắm của Chính phủ
Hiệp định EVFTA bao gồm các nguyên tắc về mua sắm của Chính phủ (đấu thầu công) tương đương với quy định của Hiệp định mua sắm của Chính phủ của WTO (GPA).
Với một số nghĩa vụ như đấu thầu qua mạng, thiết lập cổng thông tin điện tử để đăng tải thông tin đấu thầu…: Việt Nam sẽ thực hiện theo lộ trình; EU cũng cam kết dành hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam để thực thi các nghĩa vụ này.
Việt Nam bảo lưu có thời hạn quyền dành riêng một tỷ lệ nhất định giá trị các gói thầu cho nhà thầu, hàng hóa, dịch vụ và lao động trong nước.
Việt Nam cam kết cho phép các nhà thầu EU được tham gia thầu trong các gói thầu của:
- Các Bộ ngành, bao gồm cả các gói thầu trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng như đường xá và cảng biển
- Các doanh nghiệp nhà nước quan trọng, ví dụ các doanh nghiệp trong lĩnh vực phân phối điện và quản lý tàu hỏa trên toàn quốc
- 34 bệnh viện công
- Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh
Một số cam kết mở cửa thị trường mua sắm công của Việt
Nam trong EVFTA
Nguồn: Ủy ban châu Âu
Phần sở hữu trí tuệ trong EVFTA gồm các cam kết về bản quyền, phát minh, sáng chế, cam kết liên quan tới dược phẩm và chỉ dẫn địa lý... với mức bảo hộ cao hơn so với WTO; tuy nhiên các mức này về cơ bản phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam
Về chỉ dẫn địa lý, Việt Nam cam kết bảo hộ 169 chỉ dẫn địa lý của EU và EU sẽ bảo hộ 39 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam. Các chỉ dẫn địa lý của Việt Nam đều liên quan tới nông sản, thực phẩm. Đây là điều kiện để một số chủng loại nông sản nổi bật của Việt Nam tiếp cận và khẳng định thương hiệu của mình tại thị trường EU.
Về dược phẩm, Việt Nam cam kết tăng cường bảo hộ độc quyền dữ liệu cho các sản phẩm dược phẩm của EU, và nếu cơ quan có thẩm quyền chậm trễ trong việc cấp phép lưu hành dược phẩm thì thời hạn bảo hộ sáng chế có thể được kéo dài thêm nhưng không quá 2 năm.
- Doanh nghiệp nhà nước và trợ cấp
Về doanh nghiệp nhà nước (DNNN): Hai Bên thống nhất về các nguyên tắc đối với các DNNN; các nguyên tắc này, cùng với các nguyên tắc về trợ cấp, hướng tới việc bảo đảm môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các DNNN và doanh nghiệp dân doanh khi các DNNN tham gia vào các hoạt động thương mại.
Các nghĩa vụ chính của Chương DNNN là: (i) hoạt động theo cơ chế thị trường, nghĩa là doanh nghiệp có quyền tự quyết định trong hoạt động kinh doanh và không có sự can thiệp hành chính của Nhà nước, ngoại trừ trường hợp thực hiện mục tiêu chính sách công; (ii) không có sự phân biệt đối xử trong mua bán hàng hóa, dịch vụ đối với những ngành, lĩnh vực đã mở cửa; (iii) minh bạch hóa các thông tin cơ bản của doanh nghiệp phù hợp với quy định của pháp luật về doanh nghiệp.
Đối với các khoản trợ cấp trong nước: Sẽ có các quy tắc về minh bạch và có thủ tục tham vấn.
Để phát triển thương mại điện tử giữa Việt Nam và EU, hai bên cam kết không đánh thuế nhập khẩu đối với giao dịch điện tử. Hai bên cũng cam kết hợp tác thông qua việc duy trì đối thoại về các vấn đề quản lý được đặt ra trong thương mại điện tử, bao gồm:
- Trách nhiệm của các nhà cung cấp dịch vụ trung gian trong việc truyền dẫn hay lưu trữ thông tin;
- Ứng xử với các hình thức liên lạc điện tử trong thương mại không được sự cho phép của người nhận (như thư điện tử chào hàng, quảng cáo…);
- Bảo vệ người tiêu dùng khi tham gia giao dịch điện tử.
- Hai bên cũng sẽ hợp tác trao đổi thông tin về quy định pháp luật trong nước và các vấn đề thực thi liên quan.
- Minh bạch hóa
Xuất phát từ thực tiễn môi trường pháp lý trong nước có ảnh hưởng lớn đến thương mại, Hiệp định EVFTA dành một chương riêng về minh bạch hóa với các yêu cầu chung nhất để đảm bảo một môi trường pháp lý hiệu quả và có thể dự đoán được cho các chủ thể kinh tế, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Thương mại và phát triển bền vững
EVFTA bao gồm một chương khá toàn diện về thương mại và phát triển bền vững, bao gồm một số nội dung quan trọng như:
- Cam kết thực thi hiệu quả các tiêu chuẩn cơ bản của Tổ chức Lao động Thế giới (ILO), các Công ước của ILO (không chỉ các Công ước cơ bản), các Hiệp định Đa phương về Môi trường mà mỗi Bên đã ký kết/gia nhập;
- Cam kết gia nhập/ký kết các Công ước cơ bản của ILO mà mỗi Bên chưa tham gia;
- Cam kết sẽ không vì mục tiêu thu hút thương mại và đầu tư mà giảm bớt các yêu cầu hoặc phương hại tới việc thực thi hiệu quả các luật về môi trường và lao động trong nước;
- Thúc đẩy Trách nhiệm xã hội (CSR) của doanh nghiệp, có dẫn chiếu tới các thông lệ quốc tế về vấn đề này;
- Một điều khoản về biến đổi khí hậu và các cam kết bảo tồn và quản lý bền vững đa dạng sinh học (bao gồm động thực vật hoang dã), rừng (bao gồm khai thác gỗ bất hợp pháp), và đánh bắt cá.
- Các cơ chế tăng cường sự tham gia của xã hội dân sự vào việc thực thi. Chương này, cả từ góc độ nội địa (tham vấn các nhóm tư vấn nội địa) và song phương (các diễn đàn song phương);
- Các điều khoản tăng cường minh bạch và trách nhiệm giải trình.
- Cơ chế giải quyết tranh chấp
EVFTA thiết lập một cơ chế giải quyết các tranh chấp có thể phát sinh giữa Việt Nam và EU trong việc diễn giải và thực thi các cam kết của Hiệp định;
- Cơ chế này áp dụng đối với hầu hết các Chương của Hiệp định và được đánh giá trong một số mặt là nhanh và hiệu quả hơn cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO;
- Cơ chế này được thiết kế với tính chất là phương thức giải quyết tranh chấp cuối cùng, khi các bên không giải quyết được tranh chấp bằng các hình thức khác;
- Cơ chế này bao gồm các quy trình và thời hạn cố định để giải quyết tranh chấp, theo đó hai Bên trước tiên phải tham vấn, nếu tham vấn không đạt được kết quả thì một trong hai Bên có thể yêu cầu thiết lập một Ban hội thẩm bao gồm các chuyên gia pháp lý độc lập;
EVFTA cũng dự liệu một cơ chế khác mềm dẻo hơn: cơ chế trung gian, để xử lý các vấn đề liên quan tới các biện pháp có ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư và thương mại song phương.
- Tham vấn và hòa giải
Tham vấn
EVFTA yêu cầu mọi tranh chấp phải được bắt đầu giải quyết bằng bước tham vấn giữa hai Bên. Cụ thể, Bên có khiếu nại phải gửi yêu cầu tham vấn đến cho Bên kia, và gửi bản sao yêu cầu đó cho Ủy ban Thương mại song phương của Hiệp định EVFTA. Tại yêu cầu tham vấn, Bên có khiếu nại phải nêu rõ hai nội dung gồm: (i) Hành vi bị khiếu nại; và (ii) các điều khoản liên quan trong Hiệp định.
Hai Bên sẽ phải cùng tiến hành tham vấn trong vòng 30 ngày tại lãnh thổ của Bên bị khiếu nại kể từ ngày Bên bị khiếu nại nhận được yêu cầu tham vấn trừ khi các Bên có thỏa thuận khác.
Sau 45 ngày mà việc tham vấn chưa tiến hành, đã tiến hành nhưng không đạt kết quả thì coi như kết thúc bước này. Các thời hạn này có thể ngắn hơn (lần lượt là 15 ngày và 20 ngày) đối với các trường hợp khẩn cấp. Tuy nhiên trong mọi trường hợp hai Bên đều có thể thỏa thuận gia hạn các thời hạn này.
Trong quá trình tham vấn, mỗi Bên phải cung cấp đầy đủ thông tin thực tế để xem xét cách thức mà các biện pháp được cho là vi phạm có thể ảnh hưởng đến việc thi hành và áp dụng Hiệp định này. Ngoài ra, tất cả thông tin và quan điểm của các Bên đều phải được bảo mật và không làm ảnh hưởng tới quyền của các Bên trong các quy trình tố tụng tiếp theo.
Bên yêu cầu tham vấn có thể được tiến hành thủ tục trọng tài trong trường hợp:
(a) Bên bị yêu cầu tham vấn không trả lời yêu cầu tham vấn trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn;
(b) Tham vấn không đựợc tiến hành trong khoảng thời gian quy định nêu trên;
(c) Các Bên thỏa thuận không tổ chức tham vấn; hoặc
(d) Tham vấn đã kết thúc mà không đạt được giải pháp đồng thuận giữa các Bên.
Hòa giải
Mục tiêu của cơ chế hòa giải trong Hiệp định EVFTA là nhằm tạo thuận lợi, giúp các Bên tìm kiếm các giải pháp đồng thuận thông qua một thủ tục toàn diện và nhanh chóng với sự hỗ trợ của một hòa giải viên.
Bên có khiếu nại có thể yêu cầu các Bên tham gia vào thủ tục hòa giải vào bất cứ lúc nào bằng việc gửi văn bản gửi cầu đến Bên bị yêu cầu, trong đó văn bản yêu cầu hòa giải phải:
(a) Chỉ ra rõ biện pháp cụ thể muốn khiếu nại;
(b) Đưa ra một bản trình bày về các tác động bị cho là bất lợi mà Bên yêu cầu cho rằng biện pháp đó có hoặc có thể có đối với thương mại hoặc tự do hóa đầu tư giữa các Bên; và
(c) Giải thích mối quan hệ nhân quả giữa biện pháp bị khiếu nại và hậu quả do biện pháp đó gây ra
- Thủ tục trọng tài
Thành lập Hội đồng trọng tài
Nếu hai Bên không đạt được thỏa thuận giải quyết tranh chấp qua tham vấn thì Bên có khiếu kiện có thể gửi yêu cầu thành lập Hội đồng trọng tài để giải quyết tranh chấp bằng quy trình trọng tài. Yêu cầu phải được lập thành văn bản, gửi tới cho Bên kia và Ủy ban Thương mại của EVFTA.
Hội đồng trọng tài bao gồm 03 trọng tài viên, được thành lập trong vòng 10 ngày trên cơ sở thỏa thuận của hai Bên về thành phần cụ thể của Hội đồng trọng tài. Trường hợp các Bên không thỏa thuận được về thành phần của Hội đồng trọng tài trong vòng 10 ngày, mỗi Bên phải chỉ định một trọng tài viên trong danh sách các ứng viên trọng tài mà đã được Bên đó lập ra theo quy định tại Điều 15.23 (Danh sách Trọng tài viên). Nếu một Bên không chỉ định được trọng tài viên từ danh sách của mình thì trọng tài viên phải được lựa chọn bằng bốc thăm, theo yêu cầu của Bên còn lại, bởi Chủ tịch Ủy ban Thương mại.
EVFTA có quy định cụ thể về điều kiện trọng tài viên, các bước để chỉ định trọng tài viên và thời hạn thành lập Hội đồng trọng tài. Một Danh sách trọng tài có sẵn sẽ được thiết lập trong vòng 6 tháng kể từ khi EVFTA có hiệu lực bởi Ủy ban Thương mại của EVFTA để phục vụ cho mục tiêu này.
Tiến hành tố tụng trọng tài
Trong vòng 10 ngày kể từ ngày Hội đồng trọng tài được thành lập, hai Bên phải cùng với Hội đồng trọng tài quyết định về các vấn đề cần thiết như khung thời gian, thù lao, chi phí trọng tài… trừ các vấn đề đã được cam kết sẵn trong EVFTA.
Quy trình tố tụng trọng tài được nêu trong Phụ lục 15-A của Chương 15 EVFTA (cách thức thông báo, đệ trình các lập luận, bắt đầu tố tụng, thay thế trọng tài viên, phiên điều trần, bảo mật thông tin trong quá trình tố tụng, các lập luận được đệ trình bởi các nhóm chủ thể có liên quan…). Các Bên tự thỏa thuận với nhau và với Hội đồng trọng tài về các vấn đề tố tụng mà EVFTA không đề cập (có thể dự đoán số lượng này là khá nhiều, bởi các nội dung của Phụ lục 15-A chỉ bao gồm các vấn đề cơ bản, trong khi thực tiễn tố tụng có thể phát sinh rất nhiều các vấn đề chi tiết khác). Theo EVFTA, Bên bị khiếu kiện phải chịu chi phí hành chính cho các phiên điều trần, nếu có, và hai Bên cùng chia sẻ các chi phí liên quan tới vấn đề tổ chức, bao gồm cả thù lao và chi phí cho trọng tài viên.
Địa điểm diễn ra phiên họp giải quyết tranh chấp phải được quyết định theo thỏa thuận giữa các Bên. Trường hợp không có sự thống nhất về địa điểm, phiên họp giải quyết tranh chấp sẽ được tổ chức tại Brúc-xen (Bỉ) khi Bên khởi kiện là Việt Nam và tại Hà Nội khi bên khởi kiện là Liên minh châu Âu.
Báo cáo của Hội đồng trọng tài
Đối với báo cáo sơ bộ: Trong vòng 90 ngày (có thể gia hạn nhưng không quá 120 ngày) kể từ ngày thành lập, Hội đồng trọng tài phải ra báo cáo sơ bộ, với các nội dung về thực tế vụ việc, áp dụng các quy định, căn cứ ra quyết định và khuyến nghị liên quan. Các Bên có quyền bình luận hoặc gửi yêu cầu về các nội dung của báo cáo sơ bộ cho Hội đồng trọng tài trong vòng 14 ngày sau khi được thông báo về báo cáo sơ bộ. Hội đồng trọng tài sau đó sẽ cân nhắc ý kiến, bình luận, yêu cầu của các Bên, điều chỉnh nội dung báo cáo và thông qua Báo cáo cuối cùng trong vòng 120 ngày (hoặc tối đa là 150 ngày nếu có gia hạn) kể từ ngày thành lập Hội đồng trọng tài.
Trong các trường hợp khẩn cấp, bao gồm các trường hợp liên quan đến hàng hóa dễ hư hỏng, hàng hóa hoặc dịch vụ theo mùa vụ, Hội đồng trọng tài sẽ nỗ lực đưa ra báo cáo sơ bộ trong vòng 45 ngày và, trong mọi trường hợp, không muộn hơn 60 ngày sau ngày thành lập Hội đồng trọng tài. Một Bên có thể đệ trình văn bản yêu cầu, bao gồm cả các ý kiến, tới Hội đồng trọng tài để xem xét lại các khía cạnh chính xác của báo cáo sơ bộ, trong vòng 7 ngày kể từ ngày có thông báo về báo cáo sơ bộ.
Đối với báo cáo cuối cùng: Hội đồng trọng tài phải đưa ra báo cáo cuối cùng tới các Bên và tới Ủy ban Thương mại trong vòng 120 ngày kể từ ngày thành lập Hội đồng trọng tài. Trường hợp nhận thấy không thể kịp thời hạn để đưa ra báo cáo cuối cùng, Chủ tịch Hội đồng trọng tài sẽ thông báo bằng văn bản tới các Bên và Ủy ban Thương mại nêu rõ lý do của việc chậm trễ đó và thời gian dự định đưa ra báo cáo cuối cùng. Trong mọi trường hợp, báo cáo cuối cùng phải được đưa ra không muộn hơn 150 ngày kể từ ngày thành lập Hội đồng trọng tài.
Trong các trường hợp khẩn cấp, bao gồm các trường hợp liên quan đến hàng hóa dễ hư hỏng, hàng hóa hoặc dịch vụ theo mùa vụ, Hội đồng trọng tài sẽ nỗ lực đưa ra báo cáo cuối cùng trong vòng 60 ngày kể từ ngày thành lập Hội đồng trọng tài. Trong mọi trường hợp, báo cáo cuối cùng phải được đưa ra không muộn hơn 75 ngày kể từ ngày thành lập Hội đồng trọng tài.
Thời gian cần thiết để thực thi
Trường hợp Bên phải thực thi cần thời gian để thực thi thì phải thông báo điều này cho Bên kia và Ủy ban Thương mại của EVFTA. Trường hợp hai Bên không thống nhất được với nhau về thời gian thực thi cần thiết thì Hội đồng trọng tài đã xử lý vụ việc sẽ được triệu tập lại để ra quyết định về khoảng thời gian cần thiết để thực thi này.
Xem xét lại biện pháp thực thi
Khi kết thúc thời hạn thực thi, Bên phải thực thi phải thông báo cho Bên kia và Ủy ban Thương mại của EVFTA về các biện pháp mà mình đã thực hiện để thực thi kết luận giải quyết tranh chấp. Trường hợp hai Bên vẫn có tranh cãi về các biện pháp này thì có thể triệu tập lại Hội đồng trọng tài đã xử lý vụ việc để Hội đồng này ra quyết định về vấn đề này.
Biện pháp khắc phục tạm thời trong trường hợp khuyến nghị không được thực thi
Trong trường hợp qua các bước nêu trên mà biện pháp thực thi cần thiết vẫn không được thực hiện thì Bên phải thực thi có thể đưa ra đề xuất về khoản bù đắp tạm thời nếu Bên được thực thi có yêu cầu. Nếu Bên được thực thi không có yêu cầu về biện pháp đền bù tạm thời hoặc đã có yêu cầu nhưng không đạt được thỏa thuận về khoản bù đắp tạm thời thì có quyền đơn phương ngừng các nhượng bộ trong EVFTA với giá trị tương đương (với điều kiện là thông báo cho Bên kia và Ủy ban Thương mại của EVFTA).